Sau đây là tổng kết tình hình CNTT mà Hội đồng thế giới (World Forum) đánh giá Việt Nam.

Theo các dự kiến thu thập được thì số sinh viên theo học ngành CNTT rất thấp so với tỉ lệ dân số và các chương trình đào tạo thì rất cũ, không thích hợp với nhu cầu hiện nay. Trên phương diện ngoại giao, họ không nói gì nhiều nhưng qua các nhà chuyên viên này thì nếu không thay đổi giáo dục sẽ khó mà lấy được đầu tư ngoại quốc trong thời gian tới vì cạnh tranh rất cao. Theo họ thì Việt Nam chỉ có mỗi một thứ là nhân công lao động rẻ hơn các nước khác trong vùng.

Nếu CNTT là ưu tiên mũi nhọn tại sao không có chính sách khuyến khích sinh viên theo học ngành này nhiều hơn?

Mấy năm trước vì vấn đề giáo dục kém cỏi mà Phillipines bị họ đánh giá rất thấp (xuống hạng 97/125) mặc dù người Phi có khả năng ngoại ngữ cao do đó mà CNTT của Phi bị mất đầu tư, và khoán ngoài chạy qua Ấn Độ và Trung Quốc.

Đánh giá tính cạnh tranh của Vietnam đã sút giảm trong ấn bản này, tụt sáu bậc xuống vị trí thứ 65. Nước này mất chỗ đứng ở 10 trong số 12 cột trụ của GCI và chỉ có một cải tiến có ý nghĩa trong môi trường kinh tế vĩ mô (ở vị trí thứ 65, lên 20 vị trí) làm giới hạn việc sụt giảm trong xếp hạng này. Mặc cho cải tiến đáng xem xét này, một số thách thức kinh tế vĩ mô vẫn còn. Thâm hụt ngân sách năm 2010 vẫn còn quá lớn, ở mức 6 phần trăm của GDP, và lạm phát quay lại mức gần hai con số sau khi đã có tụt xuống chút ít năm trước. Tiến lên trước, Việt Nam sẽ phải xây dựng sức mạnh của mình trong khi đề cập tới nhiều thách thức kinh tế. Trong số những sức mạnh cạnh tranh của mình là thị trường lao động khá hiệu lực (xếp thứ 46) và tiềm năng phát kiến của nó (xếp thứ 66) cho giai đoạn phát triển của nó, kể cả kích cỡ thị trường tương đối lớn (xếp thứ 33), điều có ích từ một thị trường xuất khẩu đặc biệt lớn. Tuy nhiên, thách thức đi lên phía trước là nhiều và lớn. Kết cấu nền, bị kéo căng bởi tăng trưởng kinh tế, vẫn còn là thách thức chính cho đất nước mặc cho một số cải tiến trong những năm gần đây, đặc biệt quan ngại về chất lượng đường xá (vị trí thứ 123) và cảng (vị trí thứ 111). Và mặc dầu giáo dục dường như là thoả mãn dưới dạng số lượng, tỉ lệ đăng tuyển ở mọi mức vẫn còn thấp (vị trí thứ 64, 103, và 110 cho đăng tuyển tiểu học, trung học và đại học, tương ứng). Để cải tiến thêm nữa tính cạnh tranh của mình, Việt Nam cũng phải tiếp tục làm mạnh môi trường thể chế. Qui chế được cảm nhận như sự nặng nề phiền hà (vị trí 113), với nhiều thủ tục (9, thứ 94) và thời gian (44 ngày, xếp thứ 119) cần có để bắt đầu doanh nghiệp làm cho điều này thành qui trình cồng kềnh. Bên cạnh đó, có mối quan tâm liên quan tới mức độ bảo vệ sở hữu trí tuệ (vị trí 127) và, tới mức độ ít hơn, sự tôn trọng quyền sở hữu riêng (vị trí 98). Chung cuộc, tham nhũng được coi như thường xuyên và rộng khắp (vị trí 104).

Báo cáo khác từ Anh:

Tôi có điện thoại hỏi tác giả bài nghiên cứu này và họ nói rằng hệ thống giáo dục cổ lỗ và lạc hậu không thể đào tạo được những người công nhân có khả năng làm việc. Ông ta còn nói rằng ông ta khuyến cáo các hãng xưởng di chuyển từ Trung Quốc qua Malaysia và Singapore và gia công phần mềm qua Ấn Độ và Brazil. Ông ta không thấy có triển vọng gì tốt tại Việt Nam nếu hệ thống giáo dục không thay đổi.

Báo cáo của đại học Oxford:

Việt Nam được coi như phương án có thể để thay thế cho Trung Quốc đối với các công ti nước ngoài (đặc biệt là Mĩ) tìm kiếm thiết lập hay tăng năng lực chế tạo chi phí thấp của họ. Điều này là do việc tăng chi phí lao động ở Trung Quốc; tăng thuế Trung Quốc đánh vào công ti nước ngoài; khó khăn với môi trường kinh doanh ở Trung Quốc; và cảm nhận trong một số hãng Mĩ rằng rủi ro chính trị của việc làm kinh doanh ở Trung Quốc có thể tăng lên do việc tăng căng thẳng thương mại Mĩ-Trung.

Tuy nhiên, qua thời gian dài, các hãng nước ngoài tìm kiếm bành trướng vận hành của họ ở Việt Nam có thể khám phá ra rằng lực lượng lao động Việt Nam thiếu những kĩ năng mấu chốt, do có các vấn đề với hệ thống giáo dục của nó.

Dân số độ tuổi làm việc dâng lên

Lực lượng lao động ở Việt Nam (được xác định là người lớn có tuổi từ 23 tới 65) được mong đợi từ 23 triệu người trong 20 năm nữa lên tới 65 triệu. Điều này sẽ giúp làm cho đất nước thành phương án thay thế khả dĩ cho Trung Quốc như trung tâm chế tạo — nếu Hà Nội có thể giảm tham nhũng và bất lực đang lan tràn trong các trường tiểu học và trung học. Giáo dục đại học ở Việt Nam cũng có vấn đề,  đặc biệt về chất lượng của việc giảng dạy khoa học và kĩ nghệ của nó.

Thiếu hụt kĩ năng

Cuộc điều tra gần đây của Bộ lao động, thương binh và xã hội Việt Nam thấy rằng chỉ 40% lực lượng lao động có đào tạo thuộc loại nào đó. Đa số những người trả lời kinh qua khó khăn trong việc tìm ra công nhân có kĩ năng sánh với nhu cầu của họ. Trong số những công nhân trong độ tuổi hai mươi, gần 80% không có đào tạo việc làm chính thức trước khi gia nhập lực lượng lao động.

Thiếu sót của hệ thống giáo dục 

Xấp xỉ 40% dân số của Việt Nam là thuộc độ tuổi tới trường hay người trẻ hơn (dưới 23). Vậy mà vấn đề của hệ thống trường học là gay gắt:

–Thời gian trên lớp không thích hợp. Một phân tích gần đây của nhóm nghiên cứu trẻ người Anh về Cuộc sống thanh niên, Khảo cứu quốc tế về nghèo nàn trẻ em, làm sáng tỏ sự kiện là năm học của người Việt Nam chỉ là 33 tuần và chỉ 20% trẻ em nhận được chuẩn quốc tế của việc học ít nhất năm tới sáu giờ trên lớp một ngày. Cả hai con số này là tồi tệ hơn nhiều ở các vùng sâu vùng xa, nơi trẻ em phải giúp đỡ gia đình trong việc nông nghiệp.

– Chi phí trả bằng tiền mặt. Năm 1991 Việt Nam đã ra luật giáo dục bắt buộc tiểu học và không phải trả tiền. Tuy nhiên, chính sách thu hồi chi phí của Việt Nam được khởi  đầu từ năm 1992 đã dịch chuyển gánh nặng chi phí từ chính phủ sang người tiêu thụ cho các bậc giáo dục tiếp sau: trung học cơ sở, trung học phổ thông và các trường hướng nghề/kĩ thuật. Việc nổi lên của tầng lớp trung bình ở Việt Nam có đủ tiền để tài trợ cho chi phí giáo dục dâng lên đang che giấu khiếm khuyết cấu trúc trong hệ thống giáo dục. Trẻ em của những gia đình với ít tiền hơn thỉnh thoảng bị buộc phải thôi học giáo dục phổ thông toàn bộ. Lần nữa, vấn đề là đặc biệt nghiêm trọng ở những vùng sâu vùng xa.

–Lương giáo viên thấp. Lương giáo viên thấp đã dẫn tới tình huống các nhà giáo dục phải gây sức ép lên học sinh để tham gia vào các hoạt động học thêm để bù thêm cho lương công chức đạm bạc của họ. Thực tế này phổ biến tới mức Nghị định chính phủ 242, được chấp thuận năm 1993, có cả  qui chế giới hạn “lớp học thêm”. Chỉ những giáo viên có thẩm quyền bây giờ mới được phép cung cấp các lớp như vậy, và học sinh trường tiểu học không được học quá hai bài học thêm trong tổng số bốn giờ mỗi tuần.

Quan điểm

Thiếu sót của hệ thống giáo dục đã tạo ra thách thức lớn cho các nhà đầu tư nước ngoài trong việc tìm kiếm tuyển mộ và duy trì nhân viên Việt Nam có triển vọng.

Họ không chỉ phải mong đợi gánh thêm chi phí lớn về các chương trình đào tạo và phát triển, họ cũng có thể cần thích ứng các phương pháp sáng tạo để duy trì các nhân viên này một khi nhân viên có kĩ năng và năng lực.

—-English version—-

Ranking

Vietnam’s competitiveness assessment declines in this edition, dropping six places to 65th. The country loses ground in 10 of the 12 pillars of the GCI and only a significant improvement in the macroeconomic environment (65th, up 20 places) limits its fall in the rankings. Despite this considerable improvement, some macroeconomic challenges remain. The 2010 budget deficit was still too large, at 6 percent of GDP, and inflation moved back to near double-digit levels after having briefly receded the year before. Going forward, Vietnam will have to build on its strengths while addressing the economy’s numerous challenges. Among its competitive strengths are its fairly efficient labor market (46th) and its innovation potential (66th) given its stage of development, including its relatively large market size (33rd), which benefits from a particularly large export market. However, the challenges going forward are numerous and significant. Infrastructure, strained by rapid economic growth, remains a major challenge for the country despite some improvement in recent years, with particular concerns about the quality of roads (123rd) and ports (111th). And although education appears to be satisfactory in terms of quality, enrollment rates at all levels remain low (64th, 103rd, and 110th for primary, secondary, and tertiary enrollments, respectively). In order to further improve its competitiveness, Vietnam must also continue to strengthen its institutional environment. Regulation is perceived as burdensome (113rd), with the number of procedures (9, 94th) and time (44 days, 119th) required to start a business making this a cumbersome process. In addition, there are concerns regarding the level of intellectual property protection (127th) and, to a lesser extent, the respect of property rights (98th). Finally, corruption is considered frequent and pervasive (104th).

Another report from UK:

Vietnam is viewed as a viable alternative to China for foreign (particularly U.S.) companies seeking to establish or increase their lower-cost manufacturing capacity. This is due to the increasing costs of labor in China; rising Chinese taxes on foreign enterprises; difficulties with the business environment in China; and the perception among some U.S. firms that the political risk of doing business in China may increase due to rising U.S.-Chinese trade tensions.

However, over the long term, foreign firms seeking to expand their operations in Vietnam may discover that the Vietnamese workforce lacks crucial skills, due to problems with its education system.

Working-Age Population Surge

The workforce in Vietnam (defined as adults aged 23 to 65) is expected to jump by 23 million over the next 20 years, to 65 million. This should help make the country a viable alternative to China as a manufacturing center–if Hanoi can reduce the corruption and incompetence that plague its primary and secondary schools. Tertiary education in Vietnam also has problems, particularly in the quality of its science and engineering instruction.

Skills Shortage

A recent employer survey by Vietnam’s Ministry of Labor, Invalids and Social Affairs found that just 40% of the workforce had training of any sort. The majority of respondents experienced difficulty in finding workers with skills to match their needs. Among workers in their early twenties, nearly 80% had no formal job training before joining the workforce.

Education System Shortcomings

Approximately 40% of Vietnam’s population is of school age or younger (under 23). Yet the school system’s problems are acute:

–Inadequate class time. An recent analysis by U.K. research group Young Lives, An International Study of Childhood Poverty, highlighted the fact that the Vietnamese school year is just 33 weeks and only 20% of children receive the international norm of at least five to six hours of class time per day. These figures are both significantly worse in rural areas, where children must help their families with agricultural work.

–Out-of-pocket cost. In 1991 Vietnam made primary school education compulsory and free. However, its cost recovery policy initiated in 1992 shifted the cost burden from the government to the consumer for subsequent education: junior secondary school, senior secondary school and technical/vocational training school. The emergence of a middle class in Vietnam with sufficient means to fund rising education costs is hiding structural deficiencies in the system. Children of families with lesser means are sometimes forced to forgo secondary education entirely. Again, the problem is particularly severe in rural areas.

–Low teacher pay. Low teacher pay has led to situations where educators have pressured students to participate in additional study activities in order to augment their meager official salaries. The practice was so pervasive that National Decree 242, approved in 1993, included regulations limiting “extra classes.” Only authorized teachers are now allowed to provide such classes, and primary school students may undertake no more than two extra lessons totaling four hours per week.

Outlook

The education system’s shortcomings have created significant challenges for foreign investors seeking to recruit and retain prospective Vietnamese employees.

Not only should they expect to incur significant costs for training and development programs, they will also likely need to adopt creative methods to retain these employees once they are skilled and competent.