ANNE LAMOTT BIRD BY BIRD &
Phương Ánh dịch NHÀ XUẤT BẢN DÂN TRÍ Những chia sẻ thiết thực về cách viết và cách sống ANNE LAMOTT BIRD BY BIRD THE NEW YORK TIMES BESTSELLER &
Lời cảm ơn Tôi muốn bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến các nhà văn đã chia sẻ với tôi những lời khuyên vô giá về việc viết lách trong suốt những năm qua: Martin Cruz Smith, Jane Vandenburgh, Ethan Canin, Alice Adams, Dennis McFarland, Orville Schell và Tom Weston. Tôi không thể hoàn thành công việc của mình nếu không có sự hỗ trợ liên tục và tầm nhìn từ biên tập viên của tôi, Jack Shoemaker. Tôi cũng xin chân thành cảm ơn người đại diện tuyệt vời của tôi, Chuck Verrill, và Nancy Palmer Jones, người đã biên tập quyển sách này (và cả quyển trước) bằng tất cả các kỹ năng cần thiết, sự nồng nhiệt và mức độ tỉ mỉ đáng kinh ngạc. Một lần nữa, tôi muốn nhấn mạnh rằng mình không thể sống đến ngày hôm nay nếu không có sự giúp đỡ của những con người tại nhà thờ St. Andrew Presbyterian ở Marin City, California. Hôm trước, Sam đã nói với tôi: “Con yêu mẹ như hai mươi con khủng long bạo chúa đứng trên hai mươi đỉnh núi”, và tôi cũng yêu thằng bé giống như vậy.
Lời mở đầu Tôi lớn lên với một người cha và một người mẹ luôn tận dụng từng phút giây để đọc sách, và họ thường đưa anh em chúng tôi đến thư viện vào mỗi tối thứ Năm để mượn sách cho cả tuần tiếp theo. Hầu như ngày nào cũng vậy, sau giờ ăn tối, cha tôi sẽ nằm đọc sách trên ghế sofa, còn mẹ ngồi đọc trên chiếc ghế bành êm ái, và ba anh em chúng tôi thì rút về góc riêng của mỗi người để đọc sách. Nhà tôi rất yên tĩnh sau bữa tối, trừ những lúc có mấy người bạn văn của cha ghé qua. Cha tôi là một nhà văn, và hầu hết bạn bè của ông cũng vậy. Những người bạn văn của cha tôi là kiểu người ồn ào, hiếm khi yên lặng, nhưng đa số họ đều tử tế và có phong thái rất nam tính. Vào các buổi chiều, sau khi xong việc trong ngày, họ thường tụ tập tại một quán bar không tên ở Sausalito, nhưng thỉnh thoảng họ cũng đến nhà tôi uống rượu và ở lại ăn tối. Tôi rất quý mến họ, nhưng tôi không thích những lúc có người say đến mức gục xuống ngay trên bàn ăn. Tôi vốn là một đứa trẻ hay lo lắng nên chuyện này khiến tôi cảm thấy bất an. Sáng nào cha tôi cũng dậy lúc năm giờ rưỡi, dù tối hôm trước ông có thức khuya cỡ nào đi nữa. Sau khi dậy, cha sẽ ngồi viết suốt vài tiếng trong phòng làm việc, sau đó làm bữa sáng
8 - BIRD by BIRD cho cả nhà, đọc báo cùng mẹ tôi, rồi quay lại làm việc đến hết buổi sáng. Mãi đến nhiều năm sau tôi mới nhận ra rằng cha đã chọn làm công việc đó để kiếm sống và ông không phải là người thất nghiệp hay mắc bệnh tâm thần. Tôi từng mong cha có một công việc bình thường, kiểu công việc mà ông sẽ đeo cà vạt rồi cùng những người cha khác đi đến công sở, ngồi trong một văn phòng nhỏ và hút thuốc. Nhưng rõ ràng việc dành cả ngày ở văn phòng của người khác để làm việc cho người khác hoàn toàn không phù hợp với tâm hồn của cha tôi. Tôi nghĩ điều đó có thể giết chết ông. Rốt cuộc ông đã qua đời khá sớm, khi mới ngoài năm mươi, nhưng ít nhất ông đã được sống theo cách của riêng mình. Vậy là tôi đã lớn lên với một người cha dành cả ngày ngồi ở bàn làm việc để viết những quyển sách và những bài báo về những nơi ông đã đến và những người ông đã gặp. Ông đọc rất nhiều thơ. Đôi khi ông đi du lịch. Với định hướng rõ ràng trong đầu, cha tôi có thể đi đến bất cứ nơi nào ông muốn. Một trong những điều tuyệt vời của việc làm nhà văn là bạn có lý do để làm nhiều điều và đi khám phá nhiều nơi. Một điều tuyệt vời khác là bạn có động lực để nhìn sâu vào cuộc sống, vào những khoảnh khắc đời thường cứ chầm chậm trôi qua hay ào ạt xô đẩy quanh ta. Việc viết lách đã giúp cha tôi hình thành kỹ năng quan sát, và sau đó ông lại dạy cho người khác cách quan sát cũng như cách ghi lại những điều họ quan sát được cùng suy nghĩ của họ. Ông dạy viết lách cho các tù nhân ở nhà tù San Quentin đã đăng ký tham gia chương trình viết sáng tạo. Ngoài ra ông
- 9 còn dạy tôi, chủ yếu bằng cách làm gương. Ông dạy chúng tôi rằng nên thực hành viết mỗi ngày và nên đọc tất cả những tác phẩm hay ho mà chúng tôi có thể tìm thấy. Ông dạy chúng tôi đọc thơ. Ông dạy chúng tôi cách trở nên táo bạo, độc đáo. Ông khuyên chúng tôi đừng sợ phạm sai lầm, và ông cho rằng Thurber1 đã đúng khi nói “Bạn vẫn có thể thất bại thảm hại ngay cả khi không dám hành động”. Cha tôi đã giúp các tù nhân và tôi khám phá ra rằng chúng tôi có rất nhiều cảm xúc, suy nghĩ, ký ức, ước mơ và (có thể là) ý kiến muốn chia sẻ, nhưng rốt cuộc tất cả chúng tôi đều có chút bực bội khi nhận ra một điều phiền toái là đến một lúc nào đó, chúng tôi thật sự phải ngồi xuống và viết. Tôi nghĩ trong việc viết lách thì tôi có lợi thế hơn so với các tù nhân, vì lúc đó tôi vẫn còn là một đứa trẻ. Dù vậy, tôi luôn cảm thấy viết lách là chuyện khó nhằn. Tôi bắt đầu viết khi lên bảy hoặc tám tuổi. Khi ấy tôi rất nhút nhát, có vẻ ngoài kỳ quặc, thích đọc sách hơn bất cứ thứ gì, nặng khoảng mười tám ký và lúc nào cũng căng thẳng đến nỗi luôn bước đi với đôi vai co lên tới tận tai, giống như Richard Nixon2. Trong một cuốn phim gia đình quay cảnh bữa tiệc sinh nhật mà tôi tham dự hồi lớp một, với những cậu bé và cô bé đáng yêu chơi đùa cùng nhau như những chú chó con, tôi thấy mình đột nhiên chạy vụt qua màn hình như con cua của Prufrock3. Rõ ràng là tôi sẽ 1 James Thurber (1894-1961): nhà văn và họa sĩ truyện tranh nổi tiếng người Mỹ. (Tất cả chú thích là của người dịch và ban biên tập, trừ khi có ghi chú khác.) 2 Richard Nixon (1913-1994): chính trị gia và luật sư người Mỹ, từng giữ chức tổng thống Mỹ thứ 37 từ năm 1969 đến năm 1974. 3 Con cua của Prufrock: một hình ảnh nổi tiếng trong bài thơ “The Love Song of J. Alfred Prufrock” (tạm dịch: Bản tình ca của J. Alfred Prufrock) của nhà thơ T.S. Eliot. Trong bài thơ, Prufrock thường cảm thấy bị dồn ép và không thoải mái, giống như một con cua đang lẩn tránh hoặc bò đi một cách vụng về.
10 - BIRD by BIRD lớn lên và trở thành một kẻ giết người hàng loạt hoặc thành người nuôi hàng chục con mèo. Nhưng hóa ra tôi chỉ trở nên hài hước. Tôi trở nên hài hước vì những thằng bé lớn tuổi hơn tôi, những đứa mà tôi thậm chí còn không quen biết, thường đạp xe lướt qua chỗ tôi đứng và chế nhạo ngoại hình kỳ quặc của tôi. Mỗi lần như vậy, tôi đều có cảm giác như vừa trải qua một vụ xả súng. Tôi nghĩ lý do tôi có dáng đi như Nixon là vì tôi đã cố dùng vai để bịt tai mình nhưng lại không làm được. Vì vậy, trước tiên tôi trở nên hài hước, rồi sau đó tôi bắt đầu viết, tuy không phải lúc nào tôi cũng viết những điều hài hước. Bài thơ đầu tiên mà tôi viết và nhận được sự chú ý là bài thơ về John Glenn1 với những câu đầu là: “Đại tá John Glenn đã bay lên trời / trên con tàu vũ trụ Friendship Seven”. Bài thơ đó có rất nhiều câu. Nó giống như một trong những bản ballad Anh cổ điển mà mẹ đã dạy chúng tôi hát khi bà chơi piano. Mỗi bản ballad đó có tới ba mươi hoặc bốn mươi câu, nhiều đến mức khiến những người đàn ông trong họ hàng của tôi chán chường nằm vật ra ghế sofa hoặc ghế bành, như thể bị lực ly tâm đè xuống, rồi nhìn lên trần nhà với đôi mắt mở to không chớp. Giáo viên đã đọc bài thơ về John Glenn cho các bạn trong lớp hai của tôi nghe. Đó quả thật là một khoảnh khắc tuyệt vời, khoảnh khắc mà những đứa trẻ khác nhìn tôi như thể tôi vừa học lái xe. Hóa ra giáo viên đã gửi bài thơ của tôi đến một cuộc thi dành cho các trường học ở tiểu bang California, và nó 1 John Glenn (1921-2016): phi hành gia, quân nhân và chính trị gia người Mỹ. Ông là người Mỹ đầu tiên bay vòng quanh Trái Đất vào năm 1962 trên tàu vũ trụ Friendship Seven.
- 11 đã giành được một giải thưởng nào đó. Bài thơ được xuất bản trong một quyển tuyển tập và tôi ngay lập tức hiểu được cảm giác phấn khích khi thấy tên mình được in trên giấy. Cảm giác đó chính là bản năng của con người trong việc tìm kiếm một sự xác nhận cơ bản rằng khi tên bạn được in lên giấy thì bạn đã tồn tại một cách có ý nghĩa. Ai mà biết được tại sao chúng ta lại có cái khao khát mãnh liệt muốn thể hiện bản thân thay vì ẩn mình trong tâm trí rối bời, đầy mâu thuẫn của mình và lén nhìn ra thế giới bên ngoài như một sinh vật nhỏ xíu đang thò đầu ra từ một cái hang bé tí dưới đáy biển. Được thấy tên mình in trên giấy là một trải nghiệm tuyệt vời, vì bạn có thể nhận được nhiều sự chú ý mà không cần phải thật sự xuất hiện ở đâu cả. Trong khi những người muốn có sức ảnh hưởng hoặc có điều muốn truyền tải – như nhạc sĩ, cầu thủ bóng chày hoặc chính trị gia – phải xuất hiện trước người khác thì các nhà văn vốn có xu hướng nhút nhát lại có thể ở nhà mà vẫn trở thành người của công chúng. Điều này mang đến rất nhiều lợi ích cho các nhà văn, chẳng hạn như họ không cần phải ăn diện và cũng không nghe thấy người khác phản đối ngay lập tức những gì mình nói. Đôi khi tôi được ngồi viết thơ trên sàn trong phòng làm việc của cha tôi trong lúc ông ngồi ở bàn viết sách. Cứ vài năm lại có một quyển sách mới của ông được xuất bản. Gia đình tôi coi trọng những quyển sách hơn bất cứ thứ gì và ngưỡng mộ các nhà văn vĩ đại hơn bất cứ ai. Trong nhà tôi, những quyển sách quan trọng được trưng bày ở những vị trí nổi bật: trên bàn cà phê, trên máy radio và phía sau nắp bồn cầu. Tôi lớn lên cùng với những lời giới thiệu trên bìa sách và những bài đánh giá
12 - BIRD by BIRD trên báo về mấy quyển sách mà cha tôi đã xuất bản. Tất cả những điều đó khiến tôi bắt đầu muốn trở thành một nhà văn – kiểu người có tinh thần nghệ thuật và tâm hồn tự do, đồng thời cũng là kiểu người hiếm hoi thuộc tầng lớp lao động nhưng lại có thể tự định đoạt cuộc sống của mình. Dù vậy, tôi vẫn lo rằng nhà mình chẳng bao giờ có đủ tiền. Tôi sợ cha tôi sẽ trở thành kẻ vô dụng như một vài người bạn văn của ông. Tôi nhớ hồi năm tôi mười tuổi, cha đã đăng một bài viết trên tạp chí, trong đó có nhắc đến việc ông đã dành một buổi chiều ngồi dưới mái hiên ở bãi biển Stinson cùng một nhóm nhà văn khác, và cả nhóm đều uống rất nhiều rượu vang đỏ và hút cần sa. Thời đó chỉ có các nhạc sĩ jazz mới hút cần sa, mà họ còn nghiện heroin nữa. Những ông bố người da trắng thuộc tầng lớp trung lưu tử tế chẳng có ai hút cần sa, thay vào đó, thú vui của họ là đi chèo thuyền hoặc chơi quần vợt. Cha của bạn bè tôi – những người là giáo viên, bác sĩ, lính cứu hỏa hoặc luật sư – không ai hút cần sa. Thậm chí đa số những người cha đó còn không uống rượu, và chắc chắn họ cũng không có đồng nghiệp nào đến nhà chơi rồi say gục trên bàn ăn sau khi dùng xong món cá ngừ hầm. Khi đọc bài viết của cha tôi, tôi chỉ có thể tưởng tượng rằng thế giới này đang sụp đổ, rằng lần tới khi tôi lao vào phòng làm việc của ông để khoe bảng điểm, ông sẽ co rúm dưới gầm bàn với một chiếc vớ nylon của mẹ buộc chặt quanh bắp tay và ngước nhìn tôi bằng ánh mắt của một con sói bị dồn vào đường cùng. Tôi cảm thấy việc cha tôi hút cần sa sẽ trở thành một vấn đề nan giải, và tôi chắc chắn gia đình tôi sẽ bị cộng đồng tẩy chay.
- 13 Tất cả những gì tôi mong muốn là được thuộc về một nơi nào đó, được hòa nhập với mọi người xung quanh. Đến năm lớp bảy và lớp tám, tôi vẫn chỉ nặng khoảng mười tám ký. Lúc đó tôi mười hai tuổi và đã bị trêu chọc về ngoại hình kỳ quặc của mình trong suốt phần lớn cuộc đời. Hoa Kỳ là một đất nước không chào đón vẻ ngoài khác biệt – đất nước mà Paul Krassner1 gọi là “Hợp chúng quốc Quảng cáo” – và nếu bạn quá ốm, quá cao, quá đen, quá kỳ lạ, quá thấp, tóc quá xoăn, quá xấu xí, quá nghèo hoặc cận thị, bạn sẽ bị trêu chọc. Tôi đã bị như vậy. Nhưng tôi có khiếu hài hước. Vậy nên những đứa trẻ nổi tiếng đã giao du với tôi, cho tôi đến dự tiệc của chúng và nhìn chúng ôm hôn nhau. Tất nhiên là việc đó không có ích gì cho lòng tự trọng của tôi. Tôi đã nghĩ mình thật sự là một kẻ thất bại. Nhưng một ngày nọ, tôi mang theo một quyển sổ tay và một cây bút khi đến bãi biển Bolinas với cha tôi (người mà theo như tôi thấy thì rõ ràng là chưa đến mức trở thành “con nghiện”). Bằng những công cụ tương đương với khung tranh và cây cọ của một họa sĩ, tôi đã “vẽ” lại những gì mình thấy: “Tôi bước đến mép nước và để chiếc lưỡi bọt biển của dòng nước ồ ạt xô đến liếm qua ngón chân mình. Một con cua cát đào một cái hố cách chân tôi vài xăng-ti-mét rồi nó nhanh chóng biến mất dưới lớp cát ẩm…”. Tôi sẽ không trích hết phần còn lại của bài viết vì nó khá dài. Cha tôi đã thuyết phục tôi đưa bài viết đó cho giáo viên xem, và rốt cuộc bài viết của tôi đã được đưa vào một quyển sách giáo khoa thực thụ. Chuyện này đã gây ấn tượng sâu sắc cho các giáo viên của tôi, cha mẹ tôi và 1 Paul Krassner (1932-2019): nhà văn và nhà hoạt động xã hội nổi tiếng. Ông thường có cái nhìn châm biếm về xã hội và chính trị Mỹ.
14 - BIRD by BIRD một vài đứa trẻ khác. Thậm chí mấy đứa trẻ nổi tiếng cũng thấy ấn tượng và mời tôi đến dự nhiều bữa tiệc hơn để tôi có thể thường xuyên thấy chúng hôn nhau hơn. Một ngày nọ, một trong những cô bạn nổi tiếng ở trường đã đến nhà tôi để ngủ lại qua đêm. Hôm đó cha mẹ tôi đang rất vui mừng vì quyển tiểu thuyết mới của cha tôi vừa được xuất bản và họ vừa nhận được bản in đầu tiên. Tất cả chúng tôi đều rất phấn khích và tự hào, và cô bạn đó dường như đã nghĩ rằng tôi có một người cha tuyệt vời nhất trên đời vì ông là một nhà văn. (Cha cô ấy bán ô tô.) Chúng tôi đã ra ngoài ăn tối và cùng nâng ly chúc mừng nhau. Bầu không khí trong gia đình tôi lúc đó thật hoàn hảo, và cô bạn của tôi đã hiện diện ở đó như một nhân chứng cho niềm hạnh phúc của chúng tôi. Đêm hôm đó, trước khi đi ngủ, tôi cầm quyển tiểu thuyết mới của cha và đọc cho bạn tôi nghe. Chúng tôi nằm cạnh nhau trong những chiếc túi ngủ trên sàn nhà. Hóa ra trang đầu tiên của quyển sách lại tả cảnh một người đàn ông và một người phụ nữ đang nằm trên giường và thân mật với nhau. Người đàn ông đang đùa nghịch với bầu ngực của người phụ nữ. Tôi bắt đầu cười khúc khích trong cơn phấn khích dâng trào. “Ồ, coi bộ hay à nha!”, tôi nghĩ và vui vẻ cười với bạn mình. Tôi dùng một tay che miệng, giống như Charlie Chaplin1 đang đỏ mặt vì ngại ngùng, và giả vờ như tôi sắp ném quyển sách ngớ ngẩn đó ra sau lưng. “Hấp dẫn quá”, tôi nghĩ và ngửa đầu ra sau cười lớn. 1 Charlie Chaplin (1889-1977): một trong những diễn viên, đạo diễn, nhà sản xuất và nhạc sĩ nổi tiếng nhất trong lịch sử điện ảnh. Ông là một trong những biểu tượng lớn nhất của kỷ nguyên phim câm và đã góp phần định hình nền điện ảnh Hollywood trong những năm đầu thế kỷ 20.
- 15 Khi cơn buồn cười qua đi, tôi nhận ra chuyện cha mình viết sách khiêu dâm và tôi cảm thấy xấu hổ đến mức mặt tôi nóng bừng. Tôi chưa từng nhắc đến quyển sách này với cha tôi, mặc dù trong vài năm sau đó, tôi thường lén đọc nó vào đêm khuya để tìm thêm những đoạn “nóng bỏng” hơn, những đoạn xuất hiện khá nhiều trong sách. Quyển sách đó thật sự khiến tôi hoang mang. Nó làm tôi cảm thấy rất sợ hãi và buồn bã. Rồi một chuyện kỳ lạ xảy ra. Cha tôi đã viết một bài đăng trên tạp chí có tựa đề “Một nơi không thích hợp để nuôi dạy trẻ em” nói về Hạt Marin, mà cụ thể là nơi chúng tôi sống, một vùng đất có phong cảnh tuyệt đẹp. Đối lập với vẻ đẹp bề ngoài đó, người dân trên bán đảo của chúng tôi chỉ xếp sau người Mỹ bản địa ở các khu ổ chuột của Thành phố Oakland về tỷ lệ nghiện rượu, và theo cha tôi viết thì giới trẻ ở đây còn lạm dụng ma túy ở mức đáng báo động. Ngoài ra, địa phương của chúng tôi còn có tỷ lệ ly hôn cao, tình trạng khủng hoảng tâm thần tràn lan và có cả những hiện tượng lệch lạc về tình dục. Cha tôi viết một cách đầy khinh miệt về những người đàn ông trong cộng đồng nơi chúng tôi sống, về những giá trị và sự ham muốn vật chất điên cuồng của họ, và về những người vợ của họ, “những người phụ nữ đáng mến, vợ của các bác sĩ, kiến trúc sư và luật sư, mặc những chiếc váy ngắn và những bộ đầm dài bằng vải cotton, có làn da rám nắng và được chăm sóc kỹ càng, lang thang trong các lối đi của siêu thị với ánh mắt thoáng lên một vẻ điên loạn”. Không ai trong thị trấn của chúng tôi được cha mô tả theo chiều hướng tốt đẹp. Ông viết ở đoạn cuối bài báo: “Đây là bi kịch lớn của California, vì một cuộc sống hướng
16 - BIRD by BIRD đến sự nhàn rỗi chính là một cuộc sống hướng đến cái chết – trạng thái ‘nhàn rỗi tuyệt đối’ của cõi trần này”. Bài báo của cha khiến tôi rơi vào tình thế khó xử, vì tôi rất thích chơi quần vợt, và những quý bà trong sân quần vợt đều là bạn của tôi. Tôi tập luyện tại cùng một câu lạc bộ quần vợt với họ vào mỗi buổi chiều; tôi ngồi cạnh họ trong những ngày cuối tuần, đợi cánh đàn ông (những người được ưu tiên) chơi xong để chúng tôi có thể vào sân. Vậy mà cha tôi lại khiến họ trông như những thây ma sa đọa. Tôi đã nghĩ rằng gia đình tôi tiêu đời rồi. Nhưng sau đó anh trai tôi đi học về và đem theo một bản sao bài báo của cha tôi. Anh John nói rằng cả giáo viên môn Xã hội học lẫn giáo viên môn Ngữ văn đều phát những bản sao này cho học sinh trong lớp, và thế là anh ấy trở thành người hùng trong mắt các bạn cùng lớp. Cộng đồng dân cư nơi chúng tôi sống đã có những phản ứng mạnh mẽ sau khi bài báo được xuất bản: trong suốt vài tháng sau đó, rất nhiều người đàn ông và phụ nữ ở câu lạc bộ quần vợt đã tẩy chay tôi; nhưng đồng thời, cũng có những người đột nhiên chạy đến trước mặt cha tôi khi bắt gặp ông đang đi bộ trên phố, rồi họ nắm chặt tay ông bằng cả hai tay của mình, như thể ông đã làm điều gì đó tốt đẹp cho họ. Cuối mùa hè năm ấy, tôi đã hiểu được những người đó cảm thấy như thế nào, nhờ đọc quyển Catcher in the Rye (Bắt trẻ đồng xanh). Đó là lần đầu tiên tôi biết được cảm giác có ai đó nói hộ lòng mình, cảm giác khép lại một quyển sách và thấy vừa thỏa mãn vừa nhẹ nhõm, như một sinh vật cô độc và tách biệt với xã hội cuối cùng cũng tìm thấy sự kết nối.
Mục lục Lời cảm ơn 5 Lời mở đầu 7 Phần một: VIẾT LÁCH 35 Khởi đầu 37 Đoạn văn ngắn 52 Những bản thảo dở tệ 57 Chủ nghĩa cầu toàn 64 Bữa trưa ở trường 70 Ảnh chụp lấy liền 78 Nhân vật 83 Cốt truyện 96 Lời thoại 107 Bối cảnh 119 Những khởi đầu sai 127 Phác thảo cốt truyện 132 Hoàn thành tác phẩm 141
- 311 Phần hai: TÂM THẾ CỦA NHÀ VĂN 143 Quan sát 145 Quan điểm đạo đức 152 Bông cải xanh 160 Đài phát thanh KFKD 166 Sự ghen tỵ 174 Phần ba: NHỮNG HỖ TRỢ TRÊN HÀNH TRÌNH VIẾT LÁCH 185 Giấy ghi chú 187 Gọi điện thoại 201 Nhóm viết lách 208 Người đọc bản thảo 220 Những bức thư 232 Khủng hoảng sáng tạo 237 Phần bốn: XUẤT BẢN VÀ ĐỘNG LỰC VIẾT 245 Viết một món quà 247 Tìm giọng văn của bạn 260 Cho đi 269 Xuất bản 276 Lời kết 293
RkJQdWJsaXNoZXIy MjI4NTM1Ng==