Lâ
Lâm Đặng Cam Thảo dịch
BỒ ĐỀ ĐẠT MA Trong suốt quá trình tiến hóa của tâm thức nhân loại, chưa từng có một bậc giác ngộ nào lạ lùng như Bồ Đề Đạt Ma – một nhân vật hiếm có, độc đáo và đầy thu hút. George Gurdjieff cũng chỉ có vài phần gần giống, nhưng không gần lắm – và cũng chỉ vài phần thôi, không phải tất cả. Có nhiều giác giả trên thế gian này, nhưng Bồ Đề Đạt Ma nổi bật như đỉnh Everest. Cách hiện hữu, cách sống và cách bày tỏ chân lý của ông ấy là hoàn toàn khác biệt, không một ai sánh được. Ngay cả thầy của ông ấy,
Meetings with Remarkable People - 13 Phật Thích Ca Mâu Ni, cũng không thể sánh được với Bồ Đề Đạt Ma ở vài điểm. Hẳn Đức Phật cũng thấy khó “tiêu hóa” được con người này. Bồ Đề Đạt Ma đi từ Ấn Độ đến Trung Quốc để truyền đạt thông điệp của Đức Phật. Mặc dù cách nhau cả ngàn năm nhưng đối với Bồ Đề Đạt Ma và đối với những người giống như ông ấy, không hề có sự ngăn cách về thời gian, không gian – đối với Bồ Đề Đạt Ma, Đức Phật luôn hiện hữu. Có khoảng cách một ngàn năm giữa Đức Phật và Bồ Đề Đạt Ma, nhưng trên thực tế lại chẳng có khoảng cách nào về mặt chân lý. Xét về khía cạnh luân hồi, Đức Phật đã nhập diệt một ngàn năm khi Bồ Đề Đạt Ma chào đời, nhưng ở tâm điểm, họ vẫn bên nhau. Bồ Đề Đạt Ma nói về những tinh hoa của Đức Phật, dĩ nhiên là theo cách riêng của ông ấy. Ngay cả Đức Phật cũng thấy nó lạ lùng. Đức Phật là người học rộng, tinh thông, và vô cùng duyên dáng. Bồ Đề Đạt Ma thì hoàn toàn ngược lại. Đó không phải là con người, mà là một con sư tử. Ông ấy không phát ra tiếng nói mà là tiếng gầm. Ông ấy thô ráp chứ không có nét duyên dáng như Phật Thích Ca Mâu Ni. Ông ấy không được mài dũa lấp lánh như kim cương; ông ấy chỉ mới đi ra từ mỏ đá, hoàn toàn thô sơ, chưa qua mài dũa, đánh bóng. Đó là vẻ đẹp của Bồ Đề Đạt Ma. Đức Phật thì sở hữu một vẻ đẹp uyển chuyển, tao nhã. Bồ Đề Đạt Ma cũng có vẻ đẹp của riêng mình, giống như vẻ đẹp của một tảng đá – mạnh mẽ, cứng cáp và bền bỉ.
14 - Trò Chuyện với Vĩ Nhân Đức Phật cũng tỏa ra sức mạnh, nhưng đó là sức mạnh tĩnh lặng, giống như một lời thì thầm, một làn gió dịu mát. Bồ Đề Đạt Ma là cơn bão, là sấm chớp. Đức Phật nhẹ nhàng đến trước cửa nhà bạn, ngài thậm chí không gõ cửa, và bạn cũng sẽ không nhìn thấy bước chân của ngài. Nhưng khi Bồ Đề Đạt Ma tìm đến nhà bạn, ông ấy sẽ làm rung chuyển cả nền móng của ngôi nhà. Đức Phật sẽ không đánh thức bạn ngay cả khi bạn đang ngủ. Còn Bồ Đề Đạt Ma ư? Ông ấy sẽ dựng bạn dậy từ nấm mồ! Ông ấy sẽ đập thật mạnh, hành động như một thợ nề. Chỉ khác về cách biểu đạt so với Đức Phật nhưng thông điệp thì hoàn toàn giống nhau. Ông ấy cúi đầu trước Đức Phật như trước một người thầy. Ông ấy không bao giờ nói: “Đây là thông điệp của tôi”, mà ông ấy nói: “Đây là thông điệp của Phật Tổ. Tôi chỉ là người đưa tin. Tôi không sở hữu gì cả bởi vì tôi không có gì cả. Tôi chỉ là một ống trúc rỗng được Đức Phật lựa chọn làm thành ống sáo. Họ ca hát; tôi chỉ là phương tiện để họ ca hát”. *** Ra đời cách đây mười bốn thế kỷ, Bồ Đề Đạt Ma là con trai của vua xứ Pallava, một đế chế hùng mạnh ở miền Nam Ấn Độ. Ông là hoàng tử thứ ba, nhưng sau khi chứng kiến mọi thứ diễn ra – Bồ Đề Đạt Ma vốn thông minh hơn người – ông đã quyết định từ bỏ chốn hoàng cung. Ông không chống lại thế giới nhưng chưa sẵn sàng lãng phí
Meetings with Remarkable People - 15 thời gian của mình cho những điều tầm thường. Tất cả những gì ông ấy muốn là hiểu được bản chất của chính mình, bởi vì nếu không biết được bản chất đó, bạn phải chấp nhận cái chết. Trên thực tế, tất cả những người tìm kiếm chân lý đều chống lại cái chết. Bertrand Russell khẳng định rằng nếu không có cái chết, sẽ không có tôn giáo. Có ít nhiều sự thật trong phát biểu đó. Tôi không hoàn toàn đồng ý bởi vì tôn giáo là một lục địa mênh mông. Nó không chỉ là cái chết, mà còn là sự tìm kiếm phúc lành, tìm kiếm chân lý, tìm kiếm ý nghĩa của cuộc sống; nó còn hàm chứa nhiều thứ khác nữa. Nhưng hẳn là Bertrand Russell nói đúng: nếu không có cái chết, rất ít, rất hiếm người quan tâm đến tôn giáo. Cái chết là nguồn động lực to lớn. Khi từ bỏ hoàng cung, Bồ Đề Đạt Ma nói với vua cha: “Nếu phụ thân không thể cứu nhi thần khỏi cái chết, vậy đừng ngăn cản. Hãy để nhi thần đi tìm kiếm điều gì đó vượt ra ngoài cái chết”. Đó là những ngày tháng tươi đẹp, đặc biệt ở phương Đông. Vua cha suy nghĩ trong giây lát rồi nói: “Ta sẽ không ngăn cản con, bởi vì ta không thể ngăn cản cái chết đến với con. Con hãy ra đi và ta chúc phúc cho con. Thật buồn nhưng đó là vấn đề của ta, đó là tình cảm quyến luyến của ta. Ta luôn hy vọng con sẽ là người kế vị, sẽ là một vị hoàng đế của Pallava hùng mạnh, nhưng con đã chọn điều gì đó lớn lao hơn. Ta là phụ thân của con, sao ta có thể ngăn cản con được? Và con đã hỏi theo cách thật đơn giản mà ta chưa từng nghĩ đến. Con hỏi ‘Nếu phụ thân
16 - Trò Chuyện với Vĩ Nhân có thể cứu nhi thần khỏi cái chết, nhi thần sẽ không rời khỏi hoàng cung, nhưng nếu phụ thân không thể, vậy thì đừng giữ nhi thần lại’”. Bạn có thể thấy được tầm vóc của Bồ Đề Đạt Ma, một con người thông minh tuyệt đỉnh. Và điều thứ hai tôi muốn bạn ghi nhớ là mặc dù Bồ Đề Đạt Ma là một Phật tử nhưng trong chừng mực nào đó, ông ấy còn vươn cao hơn cả Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Chẳng hạn như Phật Thích Ca Mâu Ni e ngại thụ pháp điểm đạo cho nữ giới nhưng Bồ Đề Đạt Ma đã nhận điểm đạo từ một phụ nữ đã chứng ngộ. Người đó tên là Pragyatara. Có lẽ không ai còn nhớ đến người này; chính nhờ Bồ Đề Đạt Ma mà tên của người phụ nữ ấy vẫn còn được nhắc đến, nhưng chỉ cái tên thôi, ngoài ra không có gì khác. Chính bà đã ra lệnh cho Bồ Đề Đạt Ma đi sang Trung Quốc. Phật giáo đã xuất hiện tại Trung Quốc sáu trăm năm trước khi Bồ Đề Đạt Ma đặt chân đến đất nước này. Có điều gì đó thật kỳ diệu, chưa từng xảy ra ở bất cứ đâu, vào bất cứ thời điểm nào – thông điệp của Đức Phật lập tức chiếm trọn lòng tin của người Trung Quốc. Lúc bấy giờ, người Trung Quốc đã quá mệt mỏi dưới sự ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo Khổng Tử. Khổng Tử vốn chỉ là một nhà đạo đức, rất khắt khe về đạo đức, không biết gì về những bí ẩn nội tại của cuộc sống. Trên thực tế, ông ấy phủ nhận bất cứ điều gì ẩn chứa bên trong. Mọi thứ đều ở bên ngoài; hãy tinh chỉnh nó, đánh bóng nó, nuôi dưỡng nó, khiến cho nó trở nên xinh đẹp nhất.
Meetings with Remarkable People - 17 Ngoài Khổng Tử, chúng ta còn có Lão Tử, Trang Tử, Liệt Tử, nhưng họ không phải là thầy mà là những nhà thần bí. Họ không thể tạo ra phong trào chống lại Khổng Tử ngay trong lòng của người dân Trung Quốc. Cho nên có một lực hút vô hình. Không ai có thể sống thiếu linh hồn, và một khi bạn nghĩ rằng linh hồn không tồn tại, cuộc sống của bạn bắt đầu mất hết ý nghĩa. Linh hồn là một khái niệm mang tính hợp nhất, nếu thiếu nó, bạn sẽ bị loại ra khỏi sự tồn tại và cuộc sống vĩnh hằng. Giống như khi bị lìa khỏi thân cây, nhánh cây chắc chắn sẽ chết – nó mất hết mọi nguồn dưỡng chất – chính ý nghĩ rằng không có linh hồn bên trong bạn, không có tâm thức, sẽ chia cắt bạn ra khỏi sự tồn tại. Người đó bắt đầu co rút lại, người đó bắt đầu cảm thấy khó thở. Khổng Tử là một người rất duy lý. Các nhà thần bí như Lão Tử, Trang Tử, Liệt Tử đều biết rằng những việc mà Khổng Tử đang làm là chưa hợp lý nhưng họ không phải là thầy. Họ vẫn hoạt động trong cộng đồng của mình với vài đồ đệ. Khi đến Trung Quốc, Phật giáo ngay lập tức chạm đến tâm hồn của người dân nơi đây… như thể họ đã khao khát hàng bao thế kỷ, và Phật giáo đã xuất hiện như là một đám mây đem mưa tới. Nó làm dịu cơn khát với quy mô rộng lớn đến mức điều gì đó ngoài sức tưởng tượng đã xảy ra. Cơ Đốc giáo đã khiến nhiều người cải đạo, nhưng sự cải đạo đó chưa thể gọi là tôn giáo. Cơ Đốc giáo cải đạo cho
18 - Trò Chuyện với Vĩ Nhân người nghèo, người đói, người ăn xin, trẻ mồ côi không phải bằng tác động tâm linh mà bằng cách cho họ thức ăn, quần áo, chỗ ở, giáo dục. Nhưng tất cả những điều đó không liên quan gì đến tâm linh. Hồi giáo cũng đã cải đạo cho vô số người, nhưng bằng thanh kiếm: hoặc phải theo đạo Hồi, hoặc phải chết. Quyết định là ở nơi bạn. Việc cải đạo diễn ra tại Trung Quốc là một quá trình mang tính tôn giáo duy nhất trong toàn bộ lịch sử của nhân loại. Phật giáo chỉ giảng giải chính mình, và vẻ đẹp của thông điệp đó được dân chúng lĩnh hội. Họ đã khát khao có được nó, họ đã chờ đợi điều gì đó tương tự. Toàn thể dân chúng, tại một trong những quốc gia đông dân nhất thế giới, đã chuyển sang đạo Phật. Sáu trăm năm sau, khi Bồ Đề Đạt Ma đến Trung Quốc, đã có ba mươi ngàn ngôi đền, chùa thờ Phật, và hai triệu nhà sư Phật giáo tại đất nước này. Hai triệu nhà sư không phải là một trong số nhỏ, nó chiếm khoảng 5% tổng dân số Trung Quốc lúc bấy giờ. Pragyatara đã bảo Bồ Đề Đạt Ma đến Trung Quốc bởi vì những người đến trước đó đã có ảnh hưởng to lớn mặc dù không ai trong số họ được giác ngộ. Họ là những học giả vĩ đại, những con người rất kỷ luật, rất ân cần, tĩnh tại và giàu lòng trắc ẩn, nhưng không ai trong số họ được giác ngộ. Và giờ Trung Quốc cần một vị Phật Thích Ca Mâu Ni khác. Nền móng đã được xây dựng sẵn rồi. Bồ Đề Đạt Ma là người giác ngộ đầu tiên đặt chân đến Trung Quốc. Điều mà tôi muốn nói ở đây là dù Phật Thích
Meetings with Remarkable People - 19 Ca Mâu Ni e ngại thụ pháp điểm đạo cho nữ giới nhưng Bồ Đề Đạt Ma đã đủ can đảm để nhận điểm đạo từ một phụ nữ. Có nhiều người đã được giác ngộ nhưng ông ấy chọn một phụ nữ hẳn là có mục đích. Mục đích ấy là nhằm chứng tỏ rằng phụ nữ cũng có thể giác ngộ. Không chỉ vậy, các đồ đệ của người phụ nữ ấy cũng có thể được giác ngộ. Tên tuổi của Bồ Đề Đạt Ma tỏa sáng giữa tất cả những người đã được giác ngộ, chỉ xếp sau Phật Thích Ca Mâu Ni. Có nhiều truyền thuyết về người đàn ông này. Tất cả đều chứa đựng một ý nghĩa nhất định. Truyền thuyết kể rằng khi Bồ Đề Đạt Ma đến Trung Quốc, mất khoảng ba năm, Lương Vũ Đế đã đích thân ra đón. Danh tiếng của vị hoàng đế này đã được biết đến trước đó. Lương Vũ Đế đã có công lớn trong việc phổ biến triết lý của Phật Thích Ca Mâu Ni. Hàng ngàn học giả đã dịch kinh Phật từ tiếng Pali sang tiếng Trung Quốc, và Lương Vũ Đế chính là người bảo trợ cho toàn bộ công việc dịch thuật này. Ông đã xây dựng hàng ngàn ngôi chùa và chăm lo cho hàng ngàn tu sĩ. Ông đã hiến dâng cả vương quốc của mình để phụng sự Phật Thích Ca Mâu Ni; và lẽ đương nhiên, các nhà sư Phật giáo, những người đến đất nước này trước Bồ Đề Đạt Ma, đều nói với Lương Vũ Đế rằng bệ hạ đã thu được công đức lớn lao, rằng bệ hạ sẽ được làm thần tiên trên trời. Lẽ tất nhiên, câu hỏi đầu tiên Vũ Đế hỏi Bồ Đề Đạt Ma là: – Trẫm đã xây nhiều đền chùa, đã chăm lo cho hàng ngàn học giả, trẫm đã mở trường nghiên cứu về Phật Thích Ca
20 - Trò Chuyện với Vĩ Nhân Mâu Ni, trẫm đã hiến dâng cả vương quốc và toàn bộ của cải của mình để phụng sự Phật Thích Ca Mâu Ni. Vậy phần thưởng mà trẫm nhận được sẽ là gì? Vũ Đế hơi bối rối khi nhìn thấy Bồ Đề Đạt Ma, không nghĩ rằng ông ấy lại trông như thế. Thật dữ tợn. Ông ấy có đôi mắt rất to, nhưng lại có một trái tim rất mềm mỏng, giống như đóa sen vậy. Song, khuôn mặt của Bồ Đề Đạt Ma khiến bạn cảm thấy bị đe dọa. Thêm cặp kính râm là ông ấy sẽ chẳng khác nào một tay mafia thứ thiệt! Vũ Đế đã hỏi với một tâm trạng vô cùng lo sợ và Bồ Đề Đạt Ma đáp: – Không phần thưởng, không gì cả. Ngược lại, hãy sẵn sàng để bị đày xuống bảy tầng địa ngục đi. Vũ Đế nói: – Nhưng trẫm đã làm gì sai, vì sao lại bị đày xuống bảy tầng địa ngục? Trẫm đã làm tất cả những điều mà các nhà sư chỉ bảo. Bồ Đề Đạt Ma đáp: – Trừ khi bệ hạ lắng nghe tiếng nói nội tâm của mình, bằng không chẳng ai có thể giúp được bệ hạ, dù là Đức Phật hay người thường. Bệ hạ chưa nghe được tiếng nói nội tâm của mình. Nếu nghe, hẳn bệ hạ đã không hỏi một câu hỏi ngu ngốc như vậy. Không có phần thưởng trên con đường của Phật Thích Ca Mâu Ni bởi vì niềm khao khát được đền đáp đó bắt nguồn từ một tâm trí tham lam.
Meetings with Remarkable People - 21 Toàn bộ lời dạy của Phật Thích Ca Mâu Ni là vô sở cầu và nếu thực hiện tất cả những nghĩa cử được cho là cao đẹp này, xây đền chùa, chăm lo cho hàng ngàn tu sĩ, với một tâm trí sở cầu, bệ hạ đang đi về hướng địa ngục. Nếu bệ hạ làm điều này xuất phát từ niềm vui, chia sẻ niềm vui của mình với mọi người, và không mảy may nghĩ đến việc được đền đáp, hành động đó tự nó đã là phần thưởng. Bằng không, bệ hạ đã bỏ lỡ toàn bộ ý nghĩa của nó. Vũ Đế nói: – Tâm trí trẫm chất đầy suy nghĩ. Trẫm đã cố tìm sự bình yên cho tâm trí nhưng không thể nào làm được, và bởi vì những suy nghĩ này, tiếng ồn này nên trẫm không thể nghe được điều mà ngài gọi là tiếng nói nội tâm. Trẫm chẳng biết gì về nó. Bồ Đề Đạt Ma đáp: – Vậy thì sáng mai, lúc bốn giờ, hãy một mình đến gặp bần đạo ở ngôi đền trên núi. Bần đạo sẽ giúp tâm trí bệ hạ bình yên mãi mãi. Vũ Đế nghĩ người đàn ông này thật kỳ lạ, và cả gan. Ông đã gặp gỡ nhiều tu sĩ, họ đều rất lịch sự, còn người này thậm chí chẳng bận tâm rằng ông là hoàng đế của một đất nước hùng mạnh. Lại còn bảo đến gặp ông ta vào bốn giờ sáng hôm sau, một mình, khi trời còn tối… Người này có vẻ nguy hiểm, trong khi ông lúc nào cũng có người hầu kẻ hạ, binh lính hộ tống.
22 - Trò Chuyện với Vĩ Nhân Vũ Đế trằn trọc cả đêm: “Đi hay không đi? Bởi vì người kia có thể làm bất cứ điều gì. Ông ta tuyệt đối không đáng tin cậy”. Nhưng mặt khác, tận đáy lòng mình, nhà vua cảm nhận được sự chân thành của Bồ Đề Đạt Ma, rằng ông ta không phải là một kẻ đạo đức giả. Người đó chẳng bận tâm rằng bạn là hoàng đế trong khi bản thân chỉ là một gã ăn mày. Ông ta hành xử như vua, trong khi bạn lại giống như một kẻ ăn mày. Và cả cách ông ta nói: “Bần đạo sẽ giúp tâm trí bệ hạ bình yên mãi mãi”. Vũ Đế nghĩ: “Thật lạ, bởi vì ta đã hỏi nhiều nhà thông thái đến từ Ấn Độ, và tất cả bọn họ đều chỉ cho ta các phương pháp, kỹ thuật để tập luyện, nhưng chẳng đem lại kết quả gì; còn người đàn ông lạ lùng này, người trông giống hệt gã say rượu, mất trí, người có khuôn mặt khác lạ với cặp mắt to đáng sợ… Nhưng trông người đó cũng chân thành, một hiện tượng kỳ lạ. Mà ông ấy có thể làm được gì chứ, cùng lắm là giết chết ta thôi”. Cuối cùng, Vũ Đế không cưỡng lại được sức cám dỗ từ lời hứa “Bần đạo sẽ giúp tâm trí bệ hạ bình yên mãi mãi”. Lúc bốn giờ sáng, khi trời vẫn còn tối, Vũ Đế một mình đi đến chùa, và chỉ cách đó vài bước chân, Bồ Đề Đạt Ma đang đứng đợi ông cùng với một chiếc gậy: “Bần đạo biết bệ hạ sẽ tới, mặc dù cả đêm bệ hạ trằn trọc, phân vân không biết có nên đi hay không. Kiểu hoàng đế gì vậy – thật là hèn nhát, e sợ cả một khất sĩ, một gã ăn mày nghèo khó, một kẻ chẳng có gì ngoài chiếc gậy. Và với chiếc gậy này, bần đạo sẽ giúp tâm trí bệ hạ bình yên mãi mãi”.
MỤC LỤC LỜI NÓI ĐẦU. ..................................................................................... 5 BỒ ĐỀ ĐẠT MA .............................................................................. 12 PHẬT THÍCH CA MÂU NI ........................................................... 31 CHIYONO.......................................................................................... 77 TRANG TỬ........................................................................................ 86 DIONYSIUS .................................................................................... 108 KAHLIL GIBRAN.......................................................................... 114 GEORGE GURDJIEFF................................................................... 123 HERACLITUS................................................................................. 147 JESUS CHRIST................................................................................ 175 KABIR............................................................................................... 195 KRISHNA......................................................................................... 222 J. KRISHNAMURTI........................................................................ 235 LÃO TỬ............................................................................................ 256 MEERA............................................................................................. 288 FRIEDRICH NIETZSCHE............................................................. 301 PYTHAGORAS.............................................................................. 317 RABIYA AL-ADABIYA................................................................. 338 JALALUDDIN RUMI..................................................................... 344 HAKIM SANAI............................................................................... 359 SOCRATES. .................................................................................... 376 LỜI KẾT............................................................................................ 389
RkJQdWJsaXNoZXIy MjI4NTM1Ng==