Like, Comment, Subscribe MARK BERGEN Phúc An dịch
“Bao nhiêu thành tựu đã hoàn thành – linh hồn của Frankenstein kêu lên – ta sẽ còn làm được nhiều và nhiều hơn nữa; lần theo từng bước chân ghi dấu, ta sẽ tiên phong một con đường mới, khám phá những quyền năng chưa ai từng biết đến và mở ra cho thế giới bí mật sâu thẳm nhất của sự sáng tạo.” Mary Shelley, Frankenstein, 1818 “Đó chỉ là một trò đùa. Tất cả chỉ là một trò đùa thôi mà. Sao mọi chuyện lại trở thành sự thật vậy?” Logan Paul, “Chúng tôi đã tìm thấy một thi thể trong khu rừng tự sát ở Nhật Bản”, YouTube, 2017
PHẦN I
20 CHƯƠNG 1 Những người bình thường C had Hurley muốn tạo ra một thứ gì đó, nhưng anh vẫn chưa biết chính xác đó là thứ gì. Đầu năm 2005, Hurley dành phần lớn thời gian ngồi trước màn hình máy tính ở phía bắc California. Hurley nhìn không giống những anh chàng mọt sách thông minh ở Thung lũng Silicon. Anh có bờ vai rộng, vầng trán cao, vóc dáng khỏe khoắn của một vận động viên trung học và những lọn tóc nâu vàng được vuốt ngược ra sau theo phong cách mấy tay lướt sóng. Anh khoái bia, mê đội bóng bầu dục Philadelphia Eagles và tự coi mình là một nghệ sĩ. Cùng với một người bạn chí cốt, anh vừa khởi sự kinh doanh một dòng sản phẩm túi đựng máy tính xách tay dành cho nam giới sau khi nhận thấy hầu hết những chiếc túi hiện có trên thị trường đều xấu xí và tẻ nhạt. Nhưng một nhà thiết kế đồ họa web như Hurley biết rõ tiền tươi thóc thật nằm trong máy tính chứ không phải trong những cái túi, vậy nên anh cùng hai người bạn lập trình viên Jawed Karim và Steve Chen hy vọng sẽ tìm thấy thành công trong lĩnh vực máy tính. Ở tuổi hai mươi tám, Hurley là người lớn nhất nhóm – hơn hai người còn lại một tuổi – và cũng ngầm được xem như trưởng nhóm. Anh có một cậu con trai mới chập chững
21 biết đi và một người vợ xuất thân từ một gia đình danh giá ở Thung lũng Silicon – ba vợ anh là Jim Clark, một doanh nhân nổi tiếng trong mảng internet. Hurley bắt đầu mơ về công ty của riêng anh vào thời kỳ đầu của kỷ nguyên Web 2.0, những trang web chứa đầy nội dung của những người bình thường chứ không phải các chuyên gia. Người lướt web ồ ạt đăng tải các nhật ký trực tuyến, album ảnh, thơ ca, công thức nấu ăn, những bài kể lể dài thườn thượt hay bất cứ thứ gì họ thích. Hurley gọi họ là “những người bình thường”. Trong suốt nhiều tháng, Hurley và hai người bạn đã tranh luận về các ý tưởng cho một doanh nghiệp internet mới. Họ họp mặt tại nhà anh ở Thành phố Menlo Park hoặc tại một quán cà phê gần nhà và thảo luận về các nền tảng Web 2.0 phổ biến để học theo, trong đó có mạng xã hội Friendster và những trang web viết blog1 đang phát triển nhanh chóng. Họ thường bàn về Hot or Not, một trang web đơn giản cho phép người dùng tải ảnh một khuôn mặt lên để người khác đánh giá mức độ hấp dẫn. Đó là kiểu trang web đơn giản nhưng rất phổ biến. Nhóm của Hurley quen biết một trong những nhà sáng lập Hot or Not từ một quán cà phê họ thường lui tới khi còn làm công việc cũ, và họ biết anh ấy đang kiếm được khá nhiều tiền. Điều đó thật thú vị. Bộ ba rốt cuộc đã thống nhất với ý tưởng về một trang web cho phép người dùng chia sẻ và xem video. Vào ngày lễ tình nhân, họ đã thức rất khuya, làm việc trong ga-ra của Hurley cùng với chú chó của anh ấy, và chọn ra được một cái tên cho trang web này. Hurley đã thử chọn những từ gợi nhắc đến truyền hình cá nhân và liên hệ đến một từ lóng cũ từng được dùng để chỉ phương tiện truyền thông này: “the boob tube” (tạm dịch: vô tuyến). Họ nghĩ ra một từ để chỉ truyền hình dành cho bạn. Họ gõ từ đó vào Google. Không có kết quả. Tối hôm đó, họ mua tên miền YouTube.com, bước đầu tiên để hiện thực hóa ý tưởng của họ. 1 Blog: một trang web hoặc phần nội dung trực tuyến mà cá nhân hoặc nhóm người sử dụng để chia sẻ thông tin, suy nghĩ, kinh nghiệm và ý kiến về nhiều chủ đề khác nhau. Ban đầu, blog được xem như một dạng nhật ký cá nhân trực tuyến nhưng sau này đã phát triển thành công cụ truyền thông mạnh mẽ trong nhiều lĩnh vực như kinh doanh, giáo dục, du lịch, ẩm thực và nhiều lĩnh vực khác.
Like, Comment, Subscribe 22 Tám ngày sau, Hurley nhận được một email từ Karim có tiêu đề “Chiến lược: xin góp ý”. Nên thiết kế trang web đẹp mắt nhưng không có vẻ quá chuyên nghiệp. Trang web này nên trông như được tạo ra một cách tùy hứng chỉ với một vài người. Nên nhớ rằng dù hotornot và friendster dễ sử dụng và không có vẻ chuyên nghiệp nhưng chúng vẫn thành công vang dội. Chúng ta không muốn trang web của mình trông quá chuyên nghiệp vì điều đó sẽ khiến người ta ngại sử dụng… Điều quan trọng nhất khi thiết kế web là làm cho nó dễ sử dụng. Phải làm sao cho mẹ của chúng ta cũng có thể dùng trang web này một cách dễ dàng. Thời điểm/Cạnh tranh: Tôi nghĩ chúng ta chọn đúng thời điểm lý tưởng rồi. Việc quay video kỹ thuật số đã trở nên phổ biến từ năm ngoái vì tính năng này hiện đã có trên hầu hết các máy ảnh kỹ thuật số. Tôi thấy có một trang web là stupidvideos.com cũng lưu trữ và cho phép người xem xếp hạng các video. May mắn là trang web này không được chú ý nhiều. Chúng ta nên thảo luận về lý do stupidvideos.com không thành công và lý do chúng ta mong đợi trang web của mình thu hút được nhiều sự chú ý hơn. Hurley đọc tiếp. Trọng tâm trang web: Chúng ta nên tập trung hoàn toàn vào chuyện hẹn hò, giống như hotornot. Cần lưu ý rằng dù hotornot là trang web hẹn hò nhưng lại không có vẻ quá giống một trang web hẹn hò. Điều này khiến người ta cảm thấy thoải mái. Tôi tin là một trang video tập trung vào chuyện hẹn hò
23 sẽ thu hút nhiều sự chú ý hơn một trang video ngớ ngẩn. Vì sao? Bởi vì hẹn hò và tìm bạn gái là những điều mà hầu hết những người chưa kết hôn thường quan tâm. Còn số lượng các video ngớ ngẩn mà người ta có thể xem là có giới hạn, trước khi họ cảm thấy nhàm chán và mất hứng thú. Hurley đã kết hôn, nhưng anh đồng tình rằng chuyện hẹn hò có thể khuyến khích người ta quay và xem video. “Mọi người muốn xem và muốn được người khác xem”, vài tuần sau anh viết. Karim kết thúc email với thông tin về ngày ra mắt dự kiến của YouTube vào khoảng ba tháng sau đó: ngày 15 tháng Năm năm 2005. Ba người bắt tay vào việc. Hurley nghiên cứu giao diện mà khách truy cập sẽ nhìn thấy khi vào trang YouTube.com. Chen và Karim lập trình để đưa trang web đi vào hoạt động. Sau đó, vào ngày 20 tháng Ba, Yahoo tuyên bố mua lại Flickr. Yahoo là một gã khổng lồ về web, một “cổng thông tin” quý giá của các hoạt động trực tuyến, đang thu về hàng tỷ đô-la mỗi năm. Flickr là một dịch vụ Web 2.0 bóng bẩy cho phép người dùng tải lên hình ảnh kỹ thuật số. Báo chí đưa tin Yahoo đã chi tới 25 triệu đô-la cho thương vụ mua lại này. Vụ mua bán Flickr đã thôi thúc tinh thần làm việc của bộ ba khởi nghiệp. Karim gửi đi một email khác có tiêu đề “hướng đi mới”: Hôm nay tôi với Chad đã bàn bạc là trọng tâm của trang web nên giống với flickr hơn. Về cơ bản, YouTube nên là một kho lưu trữ mọi thể loại video cá nhân trên internet. Trong những tuần tiếp theo, Hurley, Chen và Karim đã nỗ lực làm việc và tiếp tục tranh luận về việc trang web của họ nên hoạt động theo hướng nào. Nên theo mô hình trang web hẹn hò hay trang web hình ảnh? Chen viết trong một email: Hot or Not thu hút “những cô cậu sinh viên sành điệu với cảm xúc mãnh liệt”, trong khi Flickr tiếp cận “các nhà thiết kế, nhà sáng tạo và
Like, Comment, Subscribe 24 nghệ sĩ”. Đối tượng nào sẽ sử dụng YouTube? Họ có nên tạo ra hai trang web không? Hurley hơi băn khoăn về mô hình giống Flickr vì lo ngại video sẽ khó tải lên và khó chỉnh sửa trực tuyến hơn so với hình ảnh, nhưng anh cũng không muốn giới hạn trang web của mình. Một đêm Chủ nhật, ngày 03 tháng Tư, Hurley gửi email cho hai người bạn và nói rằng họ nên ra mắt trang web trước rồi có thể “vừa đi vừa dò đường”. Mười ngày sau, một chướng ngại vật xuất hiện trên đường đi của họ. Google đã đưa ra lời kêu gọi trực tuyến, khuyến khích mọi người gửi cho Google các video tự quay, và sau đó công ty có thể đăng tải cho cả thế giới xem. Khi biết tin đó, Hurley đã thốt lên: “Ôi, chết tiệt”. Google còn đáng sợ hơn cả Yahoo. Khi mới khởi nghiệp, Google chỉ là một trong rất nhiều công cụ tìm kiếm web, nhưng họ đã nhanh chóng nghiền nát tất cả các đối thủ cạnh tranh. Sau đó Google bắt đầu bộc lộ tham vọng thật sự của họ. Ngày Cá tháng Tư năm 2004, Google ra mắt dịch vụ thư điện tử Gmail với dung lượng lưu trữ miễn phí lớn chưa từng có, đến mức ai nấy đều cho rằng đó là một trò đùa. Tiếp đến, họ công bố một bản đồ kỹ thuật số toàn cầu đồ sộ và miễn phí. Và giờ đây, với nguồn tài chính dồi dào và đội ngũ lập trình viên xuất sắc, Google sắp cản trở YouTube. Khi Hurley và hai người bạn họp mặt vào lần kế tiếp, danh sách công việc cần bàn xuất hiện một mục mới: có nên bỏ cuộc không? ••• Chad Hurley lớn lên ở Thành phố Reading, Pennsylvania, và dọn đến sống ở California theo kiểu thường thấy: trên sàn phòng khách. Sau khi tốt nghiệp một trường đại học nhỏ ở tiểu bang Pennsylvania, nơi anh làm những công việc lặt vặt để tạo ra các trang web, Hurley đã chuyển về sống cùng cha mẹ. Anh cảm thấy không có mục tiêu và hơi chán nản. Một ngày nọ, khi đang xem tạp chí Wired, anh bắt gặp bài viết về Confinity, một công ty ở California đang thử giao dịch tiền tệ thông qua các máy tính
25 cầm tay đời đầu gọi là PalmPilots. Confinity cần một nhà thiết kế. Hurley gửi hồ sơ xin việc ngay lập tức. Hôm sau anh nhận được phản hồi: Anh có thể đến phỏng vấn vào ngày mai không? Đó là năm 1999, khi Thung lũng Silicon tràn ngập tiền bạc và khao khát nhân sự. Confinity đã yêu cầu Hurley thiết kế logo cho dịch vụ thanh toán mới của họ là PayPal, và nhanh chóng thuê anh vào làm. Hurley bay đến phía bắc California, trung tâm mới của sự sáng tạo và thành công thương mại, và ngủ trên một tấm nệm trải trên sàn nhà. Chủ nhà của anh là Erik Klein, một lập trình viên đến từ Illinois, cũng đã bắt đầu sự nghiệp ở California theo cách tương tự. Gần như tất cả các nhân viên mới tại Confinity ban đầu đều phải ngủ trên sàn hoặc sofa ở những căn hộ của người quen gần văn phòng; vì chưa có nhiều kinh nghiệm trong công việc lẫn cuộc sống, những người trẻ tuổi này phải chờ đợi một nhà môi giới mà họ quen biết giúp họ tự thuê nhà mà không cần phải xác minh thông tin1. Tại Confinity, Hurley nhanh chóng gặp một nhân viên mới khác: một lập trình viên trẻ tuổi tên Steve Chen có đôi má phính, mái tóc đen lởm chởm và hay cười rôm rả. Chen đã bay đến đây bằng vé một chiều từ Chicago, bỏ ngang đại học khi chỉ còn cách lễ tốt nghiệp một học kỳ, và điều đó khiến cha mẹ anh bị sốc. Chen sinh ra ở Đài Bắc và cùng gia đình chuyển đến sống ở Mỹ vào năm lên tám tuổi. Trong suốt chuyến bay đến Mỹ năm ấy, cậu bé Chen không biết làm sao để hỏi xin tiếp viên nước uống bằng tiếng Anh. Vậy nên cậu đã dành phần lớn tuổi thơ ở vùng ngoại ô Chicago để học ngôn ngữ này. Đến năm mười lăm tuổi, Chen vào học nội trú ở Học viện Khoa học và Toán học Illinois, nơi cậu tìm thấy thứ ngôn ngữ mình thật sự thông thạo: ngôn ngữ máy tính. Chen có chiếc máy tính để bàn khổng lồ của riêng mình, và do không có cha mẹ bên cạnh nên cậu có thể thức khuya, uống cà phê, nghịch ngợm các loại mã lập trình khiến màn hình chuyển động. Chen tiếp tục theo học ngành khoa học máy tính tại Đại học Illinois nhưng 1 Trong thủ tục thuê nhà ở Mỹ, người ta thường xác minh lịch sử thuê nhà, công việc hay các thông tin tài chính của người thuê để đảm bảo họ có khả năng trả tiền nhà đúng hạn.
Like, Comment, Subscribe 26 thường xuyên trốn học. Các bài tập trên lớp chỉ yêu cầu kết quả lập trình, nghĩa là một chương trình hoặc thuật toán được tối ưu hóa để thực hiện một tác vụ – nếu điều này xảy ra thì điều đó sẽ xảy ra. Chen có thể tìm ra kết quả chỉ với một quyển sách và một cái bàn phím. Hơn nữa, anh cũng đã có một mối quan hệ trong ngành. Một trong những nhà sáng lập Confinity là Max Levchin, một cựu sinh viên Đại học Illinois thích tuyển dụng những người từng học trường trung học của Chen; Levchin từng nói với một phóng viên rằng học viện Illinois đào tạo ra những lập trình viên “cực kỳ thông minh, chăm chỉ, không hư hỏng”, hoàn hảo cho một công ty khởi nghiệp. Chen bắt đầu làm việc tại Confinity vào một ngày Chủ nhật. Khi bước vào văn phòng công ty, anh nhìn thấy bốn lập trình viên khác đang chơi trò chơi điện tử. Thiên đường. Chen ưa làm việc khuya, uống cà phê cappuccino và hút thuốc lá. Đôi khi anh tới văn phòng lúc đã quá trưa. Các đồng nghiệp trêu anh là tay pha trò tinh quái; anh hay nghỉ giải lao để hút thuốc và thường dùng “lối tắt” lập trình – những giải pháp kỹ thuật không tinh tế mà các lập trình viên khác đều tránh. Chen thích lập trình bằng Python, một ngôn ngữ máy tính rối rắm ít người dùng. Anh chọn Python vì nó có mã nguồn mở, được cộng đồng toàn cầu xây dựng và duy trì, mang tinh thần tự do mà anh nhìn thấy ở chính mình. Thỉnh thoảng, Chen làm việc cùng Jawed Karim, một người nhập cư tài năng, nổi loạn khác đến từ Đại học Illinois. Karim cũng yêu thích internet vì nó có tính tự do và khả năng phá vỡ các quy tắc. Trong thời đại học, Karim đã phát minh ra MP3 Voyeur, một dịch vụ chia sẻ tập tin mà giới sinh viên am hiểu công nghệ thường dùng để tải nhạc trực tuyến, từ nhiều tháng trước khi một dịch vụ khác tên Napster ra mắt. Chen, Karim và Hurley đã trải qua những năm tháng đầy biến động tại Confinity. Các công ty khởi nghiệp thời đó giống như những con cá mập săn mồi, sẵn sàng xoay chuyển
27 trong chớp mắt khi ngửi thấy mùi tiền. Confinity đã từ bỏ ý tưởng đầu tiên của mình là phần mềm bảo mật để chuyển sang một ý tưởng khác: thanh toán di động. Công ty này đã xoay xở để tồn tại qua cuộc khủng hoảng dot-com – khi thị trường sụp đổ khiến nhiều doanh nghiệp internet non trẻ phá sản – và đổi tên thành PayPal. Trỗi dậy từ đống đổ nát, PayPal đã phát hành chứng khoán ra công chúng, và họ được trang đấu giá eBay mua lại vào năm 2002. Nhân sự đời đầu của PayPal là một đội ngũ gắn bó mật thiết gồm những người cực kỳ thành đạt thuộc nhóm A, và sau khi công ty được eBay mua lại, nhiều người trong số họ tiếp tục gia nhập các công ty đầu tư hàng đầu trên thị trường hoặc sáng lập các công ty lớn như Yelp, LinkedIn, SpaceX. Truyền thông đã gọi nhóm nhân sự chủ chốt này (hầu hết là nam giới) là “PayPal Mafia”. Trong khi đó, các nhà sáng lập YouTube lại được xem là nhân sự thuộc nhóm B tại PayPal. Hurley đã nghỉ việc ngay sau thương vụ mua lại PayPal vì không chịu nổi văn hóa công ty ngột ngạt của eBay. Chen từng nỗ lực để mở rộng PayPal sang Trung Quốc nhưng cũng dần chán ghét văn hóa công ty này vì tin rằng họ coi trọng lợi ích tài chính hơn niềm đam mê lập trình. Khi bộ ba bắt đầu nói về ý tưởng trang web video của họ vào đầu năm 2005, rất ít người coi trọng ý tưởng này. Tháng Tư năm đó, Chen đã gửi trang web thử nghiệm cho một đồng nghiệp cũ. Cựu thành viên PayPal phản hồi: “Hay nha, web hoạt động tốt lắm. Nhưng làm sao các anh ngăn được nội dung khiêu dăm?”. (Anh ấy gõ nhầm từ “khiêu dâm”.) Chen trấn an bạn rằng họ sẽ có cách, sau đó hỏi: “Muốn tải video lên thử không??????”. Internet thời đó vẫn chưa phải là một sân khấu công cộng khổng lồ, chưa phải là nơi để người ta tự động chia sẻ và khoe khoang. Việc đăng tải những video cá nhân chưa qua chỉnh sửa khiến người ta cảm thấy kỳ cục. Người đồng nghiệp cũ của Chen đã trả lời: “Tôi không chắc mình có video nào để tải lên không nữa”. •••
Like, Comment, Subscribe 28 Rốt cuộc, phản ứng thờ ơ đó đã không làm các anh chàng YouTube nản lòng. Google cũng không tham gia vào mảng web video nghiệp dư. Dù sao thì Google cũng không phải là đối thủ duy nhất của họ. Ngoài Google ra còn có Microsoft và một loạt các công ty mới thành lập như Revver hay Metacafe, cùng các nền tảng gây sốc thô thiển như Big Boys hay eBaum’s World. Mỗi công ty đều có cách trình chiếu video trên trang web hoặc ứng dụng của riêng họ, nhưng không ai biết cách phát video của mình ở những nơi khác trên mạng. YouTube đã tìm ra cách. Trong một bữa tiệc tại gia, Jawed Karim từng khoe công nghệ này với một lập trình viên PayPal anh quen biết là Yu Pan. “Đó là Flash”, Karim giải thích. Với Flash, một hệ thống phần mềm dùng để xử lý văn bản, âm thanh và đồ họa video, YouTube có thể nhúng khung trình phát video của mình lên các trang web khác. Đây cuối cùng sẽ là bước tiến thông minh nhất của bộ ba, một phát minh giúp YouTube vượt xa tất cả các đối thủ cạnh tranh. Tại bữa tiệc, Karim đã mở một video thử nghiệm cho Pan xem. Pan từng dùng qua Flash tại PayPal và hiểu được tiềm năng công nghệ của phần mềm này. Trên màn hình, Hurley đã dùng các điểm ảnh để vẽ một hình chữ nhật đơn giản và nút phát nhỏ hình tam giác, tượng trưng cho một chiếc ti-vi thu nhỏ có thể dễ dàng trình chiếu ở bất kỳ trang web nào. Việc phát video bằng Flash thật dễ dàng. Nhưng để video đồng bộ với âm thanh thì lại khó. Chen đã tự quay không biết bao nhiêu đoạn phim dài 4 giây, chỉnh sửa lại mã lập trình mỗi lần quay xong để đảm bảo chuyển động môi và tiếng nói của mình ăn khớp với nhau. Sau khi mấy anh chàng tự tin rằng phần mềm đã hoạt động ổn, Karim đăng tải đoạn video hoàn chỉnh đầu tiên lên YouTube, một đoạn phim dài 18 giây với một cái nháy mắt hài hước. jawed: “Tôi đang ở sở thú”. 23/4/2005. 00:18. Karim đang ở Sở thú San Diego, mặc áo khoác trượt tuyết màu đen. Tiếng trẻ em xung quanh gần như át đi
29 giọng anh, nhưng miệng anh chuyển động đồng bộ với tiếng nói. “Được rồi, vậy là chúng ta đang đứng trước một đàn voi”, anh nói, nhìn thẳng vào máy quay. “Điều thú vị về mấy con voi là chúng có những cái vòi rất, rất, rất” – tạm ngừng nói – “dài. Và đó là tất cả những gì cần nói”. Để làm phong phú nội dung trang web, Karim đã tải lên các video quay cảnh máy bay 747 cất cánh và hạ cánh. Chen thì đăng các đoạn clip về chú mèo PJ của mình với tên tài khoản là tunafat. Nhưng họ cần nhiều video hơn. Họ vẫn đang thử nghiệm ý tưởng hẹn hò, và để ý tưởng đó hoạt động hiệu quả thì họ phải có nhiều video của phụ nữ. “YouTube đang cần nội dung sáng tạo!”, Chen viết trong một bài đăng trên trang web rao vặt Craigslist. “Nếu bạn là nữ hoặc là một người nam cực kỳ sáng tạo trong độ tuổi từ mười tám đến bốn mươi lăm, và nếu bạn có máy quay kỹ thuật số để quay các đoạn phim ngắn, vui lòng làm theo các bước sau để kiếm 20 đô-la.” Hướng dẫn như sau: truy cập YouTube.com, tạo tài khoản, tải lên ba đoạn video của chính bạn. Một thanh điều hướng trên web có ghi dòng chữ để khách truy cập nhấp chọn: “Tôi là NỮ đang tìm kiếm NAM trong độ tuổi từ mười tám đến bốn mươi lăm”. Họ đã đăng những quảng cáo này quanh Las Vegas và Los Angeles. Chẳng ai hồi đáp. Quay lại với bản kế hoạch, Hurley nghĩ những lời kêu gọi sáng tạo này chán phèo và lập luận rằng họ nên khuyến khích “các đoạn phim cá nhân thật sự được quay bởi những người bình thường”. Đối với anh, hạn chế của trang web là thiếu một mục đích rõ ràng. YouTube là nơi để phô trương quan điểm hay để thể hiện sự hấp dẫn của bạn? Hurley cáu kỉnh viết trong một email: “Tôi liên tục nhận được ý kiến trái chiều từ cả hai người. Chúng ta đang đi theo hướng trang blog hay trang web hẹn hò vậy?”. Karim trả lời lại: “Dẹp blog đi, YouTube chỉ nên là một trang web để mọi người có thể đăng video của chính họ. Tự phát sóng chính mình. Thế thôi”. Ban đầu bộ ba sử dụng cụm từ “bật lên, hẹn hò” làm
Like, Comment, Subscribe 30 khẩu hiệu cho YouTube, và đó là một thất bại. Giờ đây Karim đề xuất phương châm của YouTube là “tự phát sóng chính mình”, và tuyên ngôn này đã gắn liền với trang web. Không lâu sau đó, tính thẳng thừng của Karim bắt đầu khiến hai người bạn đồng sáng lập cảm thấy khó chịu. Nhưng sự quyết đoán và câu khẩu hiệu của anh chắc chắn đã giúp ích cho YouTube khi trang web chính thức ra mắt công chúng vào tháng Năm năm đó. Tuy vậy, động lực phát triển thật sự của YouTube đến từ một số điều chỉnh sáng suốt mà bộ ba đã thực hiện vào thời điểm một tháng sau ngày ra mắt. Họ đã thêm các tính năng cho phép người dùng để lại bình luận và thêm một nút nhỏ để người ta dễ dàng gửi các liên kết video YouTube đến email cho bạn bè. Và khi có người nhấp vào một video thì hàng loạt video liên quan sẽ xuất hiện phía bên phải trang web, khuyến khích họ xem thêm. ••• Trước khi YouTube ra đời, mạng lưới truyền hình Mỹ – gồm những ông trùm như NBC, ABC, CBS và Fox – vừa mới vực dậy, bầm dập và rúm ró nhưng vẫn sống sót, sau cuộc chiến khốc liệt với kẻ thù đầu tiên của họ: truyền hình cáp. Được chính phủ cấp phép vào thập niên 1990, hàng loạt đài cáp đã chiếm lĩnh sóng truyền hình, cướp đi người xem và quảng cáo từ những tên tuổi đã thống trị ngành truyền hình kể từ khi ngành này thành lập. Truyền hình truyền thống đã chống trả bằng cách mở ra các kênh phát sóng 24/7 (như MSNBC, Fox News) và thực hiện các cuộc sáp nhập: chủ sở hữu của đài CBS là Viacom đã mua lại TNN, BET và MTV chỉ trong vài năm ngắn ngủi. Tuy nhiên, vũ khí chiến thắng của các đài truyền thống chính là chương trình truyền hình thực tế. Các chương trình này sử dụng dàn diễn viên nghiệp dư cùng với kịch bản sơ sài (hoặc hoàn toàn không có kịch bản) nên tốn rất ít chi phí sản xuất, và rất được khán giả yêu thích. Tuy nhiên, đến năm 2005 thì sự mới lạ của truyền hình thực tế đã phai nhạt. Chương trình The Real World (tạm dịch: Thế giới thực) đang ở mùa thứ mười sáu, còn Survivor (tạm dịch:
31 Người sống sót) đã tới mùa thứ mười. Các chiêu trò của truyền hình thực tế đã trở nên quá rõ ràng: khán giả giờ đây đã biết các nhân vật và mâu thuẫn trong chương trình đều được dàn dựng và chỉnh sửa cẩn thận, và nếu những người tham gia có cơ hội nổi tiếng thì cũng chỉ nổi tiếng trong thời gian ngắn chứ không dẫn đến thành công lâu dài. Các đài truyền thống đã điều chỉnh để thích nghi. Họ chuyển sang các ngôi sao hạng C (đài ABC có chương trình Dancing with the Stars (tạm dịch: Khiêu vũ với ngôi sao)) hoặc hứa hẹn danh tiếng thật sự, lâu dài: chương trình mới của Fox là American Idol (tạm dịch: Thần tượng âm nhạc Mỹ) đã dẫn đầu bảng xếp hạng truyền hình với lượng người xem mỗi tập lên tới 26 triệu. Một năm trước đó, các lãnh đạo đài NBC từng lo lắng về việc kết thúc siêu phẩm Friends (tạm dịch: Những người bạn) đã gặp may với thành công bất ngờ của The Apprentice (tạm dịch: Nhân viên tập sự), một cuộc thi thực tế có sự tham gia của người thừa kế bất động sản đã qua thời kỳ đỉnh cao là Donald Trump. Các ông trùm truyền hình đã chứng kiến điều mà internet gây ra cho ngành công nghiệp âm nhạc: một nhóm nổi loạn đã tặng nhạc miễn phí trên một trang web có tên là Napster, làm sụp đổ cả ngành này. May mắn thay, thế hệ bùng nổ dân số1 vẫn say mê truyền hình thực tế. Nhưng nhóm khán giả trẻ tuổi, những người dẫn đầu xu thế khó đoán, lại một lần nữa rời xa các chương trình truyền hình. Trong nhiệm kỳ của Tổng thống George W. Bush, người trẻ xem tin tức từ Jon Stewart trên kênh Comedy Central và dành thời gian cho mạng xã hội MySpace. Đến mùa hè năm 2005, MySpace đã trở thành hiện tượng nổi bật nhất trên mạng khi thu hút 16 triệu khách truy cập mỗi tháng và trở thành trang web phổ biến đứng thứ năm. Vào tháng Bảy, công ty mẹ của Fox là News Corporation đã chi 580 triệu đô-la để mua MySpace cùng nhóm khán giả trẻ tuổi của mạng này. 1 Thế hệ bùng nổ dân số (boomer generation): nhóm nhân khẩu học thường được định nghĩa là những người được sinh ra trong khoảng thời gian từ năm 1946 đến 1964, thời kỳ bùng nổ dân số của thế giới sau Thế chiến II.
518 Mục lục LỜI TỰA 15 Tháng Ba, 2019 5 PHẦN I ............................................................................................................. 19 CHƯƠNG 1 Những người bình thường 20 CHƯƠNG 2 Đơn sơ và tùy hứng 37 CHƯƠNG 3 Hai vị vua 56 CHƯƠNG 4 Đội quân của đế chế 73 CHƯƠNG 5 Tập đoàn của lũ hề 85 CHƯƠNG 6 Thi sĩ của Google 104 CHƯƠNG 7 Tăng tốc 118 PHẦN II ......................................................................................................... 133 CHƯƠNG 8 Nhà máy kim cương 134 CHƯƠNG 9 Nhóm Nerdfighter 147 CHƯƠNG 10 Kênh lướt ván diều 157 CHƯƠNG 11 Xem ngay bây giờ 174 CHƯƠNG 12 Nó có giúp thuyền đi nhanh hơn không? 187 CHƯƠNG 13 Cùng chơi nào 200 CHƯƠNG 14 Những kênh vô diện 212 CHƯƠNG 15 Năm gia tộc 226 CHƯƠNG 16 Ngả lưng 241 CHƯƠNG 17 Người mẹ của Google 251
519 PHẦN III ................................................................................................... 263 CHƯƠNG 18 Bản tin “Down the 'Tube” 264 CHƯƠNG 19 Tin thật 278 CHƯƠNG 20 Khó tin 291 CHƯƠNG 21 Cậu bé và đồ chơi 302 CHƯƠNG 22 Tâm điểm 315 CHƯƠNG 23 Trò đùa, mối đe dọa, điều hiển nhiên 331 CHƯƠNG 24 Bữa tiệc kết thúc 347 CHƯƠNG 25 Tận thế của quảng cáo 360 CHƯƠNG 26 Cỗ máy gây nghiện 372 CHƯƠNG 27 Elsagate 388 CHƯƠNG 28 Tác nhân xấu 404 CHƯƠNG 29 901 Đại lộ Cherry 421 CHƯƠNG 30 Đun sôi đại dương 428 CHƯƠNG 31 Công cụ của kẻ thống trị 448 PHẦN IV .................................................................................................... 461 CHƯƠNG 32 Những cuộc họp Roomba 462 CHƯƠNG 33 YouTube nào? 477 LỜI BẠT 493 Lời cảm ơn 512 Lưu ý về nguồn tin 516
RkJQdWJsaXNoZXIy MjI4NTM1Ng==