CUỘ C ĐỜ I CỦ A ĐẠ I SƯ HÁ M SƠN PHẦN MỘT
20 -
Đại sư Hám Sơn sinh ngày mười hai tháng Mười âm lịch, thuộc thời Minh Thế Tông, niên hiệu Gia Tĩnh năm thứ hai mươi lăm (nhằm ngày năm tháng Mười Một năm 1546, Tây lịch). Ngài được sinh ra tại huyện Toàn Tiêu, thuộc Châu Phủ Chúc Trừ, cách Nam Kinh khoảng ba mươi dặm về phía Tây (hiện nay thuộc tỉnh An Huy). Cha ngài tên là Thái Ngạn Cao. Mẹ ngài họ Hồng. Gia đình thuộc hàng sĩ thứ. Mẹ ngài là một Phật tử thuần thành, thường đến chùa dâng hương lễ bái cầu nguyện Đức Bồ Tát Quán Thế Âm. Một đêm nọ, bà nằm mộng thấy Đức Bồ Tát dẫn một đứa bé trai đến nhà. Thấy đứa bé kháu khỉnh dễ thương, bà liền đưa tay ôm nó vào lòng. Tỉnh dậy, bà liền thọ thai. Khi sinh ra, thân ngài được bao bọc bởi một màng trắng như lụ a. HỒ I THỨ NHẤT XUẤ T THẾ
22 - Ngay từ khi còn nhỏ , mẹ ngài thường ẵ m ngài đến chùa lễ bái. Bà cũ ng bỏ tiền ra đắp tô tượng Bồ Tát Quán Thế Âm, cũ ng như bố thí rất nhiều tiền bạc cho những người nghèo trong vùng. Lòng tín thành Phật pháp của bà đã ảnh hưởng rất lớn đến việc xuất gia tu học của ngài sau này. Vào ngày ngài vừ a đầy năm, khách đến nhà chú c mừ ng tấp nập, nhưng chẳng may hôm đó tự nhiên ngài bị cảm nhiệt, thân thể nóng ran, hơi thở thoi thóp. Các thầy thuốc trong vùng được mời đến cứu chữa, nhưng ai cũ ng đều thú c thủ bó tay. Thấy sinh mạng của con đã hết phương cứu chữa, sống chết chỉ còn trong lằn tơ kẽ tóc, nên mẹ ngài quyết định bồng con đến chùa Trường Thọ, cầu xin Đức Bồ Tát Quán Thế Âm cứu giú p cho. Bà khấn nguyện rằng nếu ngài thoát chết, bà sẽ cho ngài quy y Tam Bảo, xuất gia làm tăng sĩ. Lạ lùng thay, sau khi cầu nguyện xong thì bệnh tình của ngài bỗ ng từ từ thuyên giảm, rồi khỏ i hẳn. Từ đó, mẹ ngài càng tin tưởng vào sự gia trì của Bồ Tát Quán Thế Âm. Ngày nào bà cũng ẵm con đến chùa, chân thành lễ bái, xưng niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm. Ngay từ nhỏ , ngài đã thích ngồi yên lặ ng trầm tư một mình, chứ ít khi chơi đùa cùng những đứa trẻ đồng lứa nên ông nội ngài thường gọi đùa cháu là “thằ ng Cột Gỗ ”. Tuy nhỏ , nhưng ngài đã có những ý nghĩ lạ lùng về sự khổ đau, vui buồn, hợp tan của nhân sinh thế thái và thường đặt ra những câu hỏi mà người trong gia đình không ai có thể trả lời.
- 23 Năm ngài lên bảy tuổ i, một hôm từ trường về nhà, ngài thấy người chú ruột nằm chết trên giường, gia đình đang khóc lóc xung quanh, nên ngạc nhiên hỏ i: - Mẹ ơi, chú bị làm sao vậy? Mẹ ngài không biết giải thích thế nào cho đứa con nhỏ nên nói quanh: - Chú con đang ngủ mê đó, chốc nữa sẽ dậy. Ngài cảm thấy có điều gì lạ lùng nên đến bên cạnh chú , cố đánh thức ông ta dậy nhưng vô hiệu. Lú c đó, cô của ngài đau lòng bật lên khóc nức nở: - Trời ơi! Ông nỡ lòng nào lại bỏ tôi mà đi như vậy. Nghe thế, ngài hoài nghi và hỏ i mẹ: - Thưa mẹ, thân chú nằm đây nhưng chú lại đi đâu? Bà mẹ đành thở dài đáp: - Chú con đã chết rồi! Ngài lấy làm lạ nên hỏ i tiếp: - Thưa mẹ ! Chết là thế nào và chú chết rồi thì sẽ đi về đâu? Mẹ ngài chẳ ng biết phải trả lời như thế nào nên im lặ ng. Ngài khởi tâm nghi hoặ c, nên cứ suy nghĩ mã i về việc này. Ít lâu sau, ngài theo mẹ đến thăm bà dì thứ hai vì bà ta vừa sinh một đứa con. Thấy đứa bé đỏ hỏn nằm trên giường, ngài hỏ i mẹ:
24 - - Thưa mẹ! Em bé này ở đâu mà đến? Mẹ ngài trả lời: - Ở trong bụ ng dì của con chứ ở đâu. Ngài thắc mắc: - Làm sao em bé này lại chui vào bụ ng của dì được? Mẹ ngài bèn vỗ đầu ngài, bảo: - Thằng ngốc! Ngày trước con cũ ng chui từ bụ ng mẹ ra chứ ở đâu? Nghe thế, ngài lại khởi tâm nghi hoặ c và cứ suy nghĩ mã i về việc con người từ đâu sinh ra và khi chết thì đi về đâu. Năm 1553, đời Gia Tĩnh thứ ba mươi hai, ngài lên bảy tuổ i. Vì sức khỏ e yếu, thường ốm đau bệnh hoạn nên ngài được cả gia đình hết sức nuông chiều, do đó ngài sinh tật lười biếng. Tuy đã được gửi đi học ở trường làng, nhưng mỗ i tháng ngài thường trốn học nghỉ ở nhà cả nử a tháng. Thấy việc dạy bảo không nghiêm dẫ n đến chuyện học hành bê tha của con nên mẹ ngài bàn với cha ngài cho gởi con đi học tại trường ở làng bên, cách nhà một con sông. Vì con sông ngăn cách, việc đi lại khó khăn, nên ngài phải trú tại nhà người bà con bên ngoại, mỗi tháng chỉ được về thăm nhà một lần. Thật ra vì thương con, muốn tập cho con tính độc lập, tự biết lo học hành, nên mẹ ngài mới cắn răng gởi con đi học xa như vậy.
- 25 Lúc ấy, vì vẫn là trẻ con, cuộc sống xa nhà như vậy là một khó khăn lớn, nên ngài chỉ muốn trở về nhà. Một hôm, nhân lúc về thăm nhà, ngài không muốn trở lại trường nữa nên nài nỉ mẹ cho phép ở lại nhà thêm vài ngày. Bình thường, mẹ ngài rất thương con nhưng lần này vì ngài không muốn đi học nên bà tỏ thái độ, xách roi đánh đuổi ngài ra tận bờ sông. Đến nơi, thấy ngài không chịu lên thuyền, bà nổ i giận nắm đầu ngài xô xuống sông rồi bỏ về nhà mà không thèm quay đầu lại. Thấy vậy, bà ngoại ngài liền dẫn ngài về nhà xin lỗ i mẹ. Vừ a thấy ngài, mẹ ngài liền mắng: - Đồ lười biếng cứng đầu, không chịu qua sông đi học, trở về nhà làm chi? Nói xong, bà lại lấy chổ i đánh đuổ i ngài thể như không còn chút tình lưu luyến gì nữa. Ngài vừa khóc vừa chạy tránh roi của mẹ. Mẹ ngài vừ a đánh vừ a mắng: - Mày là con trai mà động một chú t đã khóc thì sau này làm sao mà khá cho được? Lú c đó, ngài thấy mẹ mình quá nghiêm khắc nên không còn dám nghĩ đến việc bỏ học về nhà nữa mà đành lên đò qua sông đi học. Sau khi ngài qua sông, mẹ ngài mới khóc sướt mướt. Bà ngoại ngài thấy thế ngạc nhiên, bèn hỏ i: - Tại sao lúc thằng bé trở về nhà chơi thì con lại vừa đánh vừa chửi mắng nó, muốn nó phải đi. Nay nó đã đi rồi, sao còn khóc lóc gì nữa?
26 - Mẹ ngài bèn thưa: - Thưa mẹ, có người mẹ nào mà lại không thương con mình, nhưng chỉ vì muốn nó cắt đứt tình cảm luyến ái gia đình để chăm chỉ học hành, nên bất đắc dĩ con mới phải làm như vậy. Nó là con trai, phải lo học hành để trở thành người hữu dụ ng sau này, chứ đâu thể lười biếng ở nhà với cha mẹ mã i được. Xưa nay, bao thiếu nhi hư hỏ ng cũ ng chỉ vì sự nhu nhược của người trong gia đình, nên con đành phải đối xử với nó như vậy, mong rằ ng tương lai nó sẽ khá. Từ khi rời nhà sống ở nhà người bà con để đi học, ngài dần dần trở thành học trò xuất sắc. Thời đó, các trường học thường do vài ông đồ già trông nom, dạy dỗ học trò các kiến thức căn bản như đọc và viết thôi. Muốn mở mang kiến thức, học trò phải đến chùa học hỏi thêm, vì chỉ nơi đó mới có các vị tăng học vấn thâm sâu dạy dỗ. Hôm đó, ngài theo chú ng bạn đến chùa học hỏ i và nghe được tiếng tụ ng kinh của chư tăng: “… Phật bảo Vô Tận Ý: Này thiện nam tử! Nếu có vô lượng trăm ngàn vạn ức chúng sanh bị bao khổ não, được nghe danh hiệu của Bồ Tát Quán Thế Âm mà nhất tâm xưng danh hiệu của Bồ Tát. Bồ Tát Quán Thế Âm tức thời quán sát những âm thanh đó, thì những chú ng sanh kia đều được giải thoát khổ nã o. Người thường trì tụ ng danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm, nếu gặ p nạn lử a lớn, lử a chẳ ng đốt cháy được, vì do oai thần lực của Bồ Tát. Nếu bị nước lớn cuốn trôi, xưng danh hiệu Bồ Tát, liền được đến chỗ cạn...”.
- 27 Ngài vừa nghe đọc như thế mà tâm thần đã rung động như người mê chợt tỉnh nên hỏ i một chú tiểu về đoạn kinh. - Xin sư chú cho biết đó là kinh gì vậy. Chú tiểu bèn đáp: - Đó là phẩm Phổ Môn trong kinh Diệu Pháp Liên Hoa, nói về hạnh nguyện cứu độ chúng sanh của Bồ Tát Quán Thế Âm. Ngài hỏ i tiếp: - Hạnh nguyện cứu độ chúng sanh của Bồ Tát Quán Thế Âm là như thế nào? Chú tiểu kia không thể giải thích rõ ràng, nên đáp: - Tôi không biết rõ lắm, nhưng trong kinh có đoạn giải thích như sau, để tôi tụng cho anh nghe thêm: “Nếu có trăm ngàn vạn ức chú ng sanh vì tìm vàng bạc, lưu ly, xà cừ , mã não, san hô, hổ phách mà vào nơi biển cả, giả sử gió thổi thuyền kia đến nước quỷ La Sát, trong đó nếu chỉ có một người xưng danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm, thì chú ng nhơn kia đều được giải thoát khỏ i nạn quỷ La Sát. Do nhân duyên đó, nên gọi là Quán Thế Âm. Nếu có người sắp sử a bị hại, mà xưng danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm, thì đao kiếm của kẻ muốn hại liền bị gã y đoạn, nên người kia được giải thoát. Nếu trong ba ngàn đại thiên quốc độ, đầy cả quỷ Dạ Xoa, La Sát, muốn đến não hại1, nghe người xưng danh 1 Não hại: làm tổn hại do giận dữ.
28 - hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm, thì các ác quỷ kia không dám dùng mắt dữ mà nhìn, hà huống gia hại. Lại nữa, nếu người có tội hay vô tội, bị cầm tù xiềng xích, mà xưng danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm, thì xiềng xích liền bị đứt đoạn, khiến được giải thoát…”. Khi ấy, tuy tuổ i còn nhỏ nhưng trí huệ của ngài đã phát triển vượt hẳ n chú ng bạn. Nghe phẩm Phổ Môn, tuy không am tường hết ý nghĩa, nhưng ngài cũ ng hiểu đôi chú t, nên xin một bản kinh đem về nhà tụ ng niệm. Nếu có chỗ nào không hiể u, ngài thường đến chùa hỏ i thầy trụ trì giảng dạy thêm cho. Vị sư trụ trì thấy ngài tuy nhỏ tuổ i mà thích tụ ng đọc kinh điể n, nên cũ ng hết lòng chỉ dạy. Ông còn kể thêm cho ngài nghe về sự tích các đại cao tăng như Đường Huyền Trang qua Ấ n Độ thỉnh kinh, Đạt Ma Tổ Sư ngồi thiền xoay mặt vào vách chín năm, v.v… Từ đó, mỗi khi học hành xong có thời gian rảnh rỗi, ngài lại tụng đọc kinh điển. Đối với những lời kinh thâm sâu vi diệu, không thể hiể u nghĩa, ngài thường tự học thuộc lòng từng chữ. Ví như phẩm Phổ Môn, không ai bắt buộc, mà ngài lại tự học thuộc lòng. Nếu có ai hỏi duyên cớ, ngài đáp rằng vì nghe chư tăng dạy bảo tụng niệm phẩm Phổ Môn thì có thể cứu khổ thế gian, nên tự dụ ng công học thuộc mà thôi. Thật ra, ngài học phẩm Phổ Môn vì có chủ đích. Số là ngài biết mẹ mình tuy rất thành tín tụ ng danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm, nhưng bà chưa hề biết đến hạnh nguyện của Bồ Tát được trình bày trong phẩm Phổ Môn như thế nào.
LỜI NÓI ĐẦU ................................................................................. 4 BỐI CẢNH LỊCH SỬ ...................................................................... 9 PHẦN MỘT: CUỘC ĐỜI CỦA ĐẠI SƯ HÁM SƠN ........19 HỒI THỨ NHẤT: XUẤT THẾ.......................................................................... 21 HỒI THỨ HAI: XUẤT GIA ................................................................................ 39 HỒI THỨ BA: VÂN DU .................................................................................63 HỒI THỨ TƯ: LIỄU ĐẠO ................................................................... 89 HỒI THỨ NĂM: THIỀN ĐỊNH ............................................................ 111 HỒI THỨ SÁU: PHÁP HỘI CẦU THÁI TỬ ....................................... 129 HỒI THỨ BẢY: THIỀN SƯ ĐẠT QUÁN .............................................147 HỒI THỨ TÁM: LÂM NẠN................................................................167 HỒI THỨ CHÍN: LƯU ĐÀY ................................................................ 203 HỒI THỨ MƯỜI: TÀO KHÊ ............................................................... 225 HỒI THỨ MƯỜI MỘT: TỰ DO ............................................................ 237 HỒI THỨ MƯỜI HAI: VIÊN TỊCH ........................................................ 255 Mục Lục
446 - PHẦN HAI: KHAI THỊ CỦ A ĐẠ I SƯ HÁ M SƠN .........297 LUẬN VỀ SỰ CẢM ỨNG ......................................................................298 SỰ THIẾT YẾU CỦ A VIỆC NIỆM PHẬT CÙNG THAM THIỀN ........302 KHAI THỊ ĐẠ I CHÚNG.........................................................................306 KHAI THỊ VỀ NHỮNG ĐIỂM THIẾT YẾU KHI NIỆM PHẬT.............309 KHAI THỊ VỀ TỊNH ĐỘ .........................................................................312 PHÁ P MÔN TỊNH ĐỘ ..........................................................................316 KHAI THỊ CHO THỊ GIẢ ĐẮNG NGU................................................320 KHAI THỊ CHO THIỀN NHÂN HUỆ CẢNH.......................................321 KHAI THỊ CHO NHAN TRUNG TIÊN TRÌ CHÚ CHUẨN ĐỀ ...........324 KHAI THỊ CHO TỪ TỊNH CHI ..............................................................326 KHAI THỊ CHO NGÔ KHẢI CAO .......................................................329 BÀI GIẢNG VỀ CHỈ QUY TỊNH ĐỘ ....................................................332 QUY CHẾ NIỆM PHẬT TRONG MƯỜ I HAI THỜ I TẠ I CHÙA HỒ TÂM .............................................................................336 THƯ ĐÁ P ĐỨC VƯƠNG .......................................................................340 KHAI THỊ THAM THIỀN THIẾT YẾU...................................................358 KHAI THỊ CHO TIÊU HUYỀN ĐOÀN .................................................366 KHAI THỊ CHO CƯ SĨ VƯƠNG HIỂN NGUNG.................................368 ĐÁ P QUAN TRUNG THỪA TRỊNH CÔN NAM................................ 371 KHAI THỊ CHO PHÙNG SANH VĂN NHỤ .......................................387
- 447 KHAI THỊ CHO THIỀN NHÂN TRÍ VÂN.............................................391 KHAI THỊ CHO THIỀN SƯ THỪA MẬT..............................................393 KHAI THỊ CHO SA DI TẠ I TỊNH .........................................................394 KHAI THỊ CHO THẦY ĐẠ I TỊNH ........................................................396 KHAI THỊ CHO THIỀN SƯ NHƯ LANG .............................................398 KHAI THỊ CHO THIỀN NHÂN THẠ CH NGỌC.................................400 KHAI THỊ CHO THIỀN SƯ NHƯ THƯỜ NG.......................................402 KHAI THỊ CHO THIỀN NHÂN KHÁ NH VÂN ...................................404 KHAI THỊ CHO THIỀN NHÂN VÔ SANH..........................................406 KHAI THỊ CHO THIỀN NHÂN TỰ TÔNG ..........................................409 KHAI THỊ CHO THIỀN NHÂN TỰ GIÁ C............................................ 413 KHAI THỊ ĐẠ I CHÚNG......................................................................... 416 KHAI THỊ CHO THIỀN NHÂN BẢO QUÝ BỔN TỊNH.....................421 KHAI THỊ CHO THIỀN NHÂN CHÂN NGỘ .....................................425 KHAI THỊ CHO THIỀN NHÂN PHÁ P CẨM.......................................429 KHẮC BÀI TỰA VỀ PHẬT SỰ DU GIÀ ...............................................434 TÓM LƯỢC CUỘ C ĐỜ I CỦ A ĐẠ I SƯ HÁ M SƠN ................438 TÀI LIỆU THAM KHẢO VÀ TRÍCH DẪN ................................444
RkJQdWJsaXNoZXIy MjI4NTM1Ng==